Ngược chiều dòng người ấy, lại có những tốp người từ nhiều miền đất rủ nhau về thành phố kiếm sống giữa cái nắng đổ lửa trong lòng chảo bê-tông, cốt thép. Ngột ngạt, oi bức hơn bởi vô vàn hơi nóng hầm hập phả ra từ điều hòa nhiệt độ trong các ngôi nhà chung cư, từ hàng vạn ô-tô con lũ lượt trên đường...
Họ quen phơi mặt, dãi nắng trên giàn giáo những công trình xây dựng. Nóng dưới bê-tông bốc lên, nắng trên đầu dội xuống, dường như mồ hôi đã cạn kiệt. Dù có làn gió thoảng qua, cũng là hơi nóng như từ lò than tỏa ra, khô rang. Ngước lên trời, mong có một đám mây đen chợt đến, che khuất quầng lửa. Bầu trời xanh ngắt, trong vắt, không một sợi mây, chẳng khác gì cái vung úp chụp xuống đầu. Từ trên cao ngó xuống, mọi nẻo đường thưa vắng người. Lâu lắm mới thấy vài người đẩy xe chất đầy hàng nhựa gia dụng, trông những bông hoa nhựa cũng héo quắt vì nắng. Cỏ cây tàn úa, chém xém, rụi ngọn. Chỉ những cây phượng, bất chấp cái nắng gay gắt, nở rực tưởng đâu lửa hoa trút sức nóng ra trời. Trên mặt đường nhựa, trên sàn bê-tông nắng chói mắt, bốc lên lớp "hoa nắng" chập chờn, ong ong. Vật vờ, thiêm thiếp giấc ngủ ban trưa nắng nôi, là những người lao động tứ phương đổ về. Việc gì cũng chẳng ngại, cốt sao nhặt nhạnh được những đồng tiền nhàu nhĩ, đẫm mồ hôi. Là những người bán hàng rong, mòn mỏi lê gót tới mọi hang cùng, ngõ hẻm, vỉa hè. Là những bác xe ôm từ những vùng chiêm trũng hay vùng trung du, thuê trọ, cơm hàng, cháo chợ, bạc mặt dưới nắng lửa, kiếm sống trên từng cây số đường nhựa chảy nhũn. Không có chỗ nào để trú nắng nếu không núp dưới bóng cây, mái hiên. "Chạy trời không khỏi nắng", phận nghèo mà trốn nắng, tránh mưa, thì lấy gì cho vào miệng, lấy tiền đâu nuôi vợ, nuôi con. Giá như được khoác bộ đồng phục công nhân, chênh vênh trên giàn giáo, phơi mình như cá khô mấy "nắng", thì bữa cơm hộp giữa trưa dù khô khốc như cơm sấy nhưng bù lại, có một cốc canh nước đá đầy tới miệng. Nước mát lạnh đến nỗi, mấy ông đẩy xe hàng rong trú nắng bên kia đường, nhìn sang cũng cảm thấy... đỡ khát. Cởi chiếc áo ướt đẫm mồ hôi, vắt lên chiếc xe đạp cọc cạch, ông già nói nắng mưa là việc của trời, cứ ru rú tránh nắng lấy gì mà ăn. Khum khum bàn tay che nắng chói, ông kể ở làng muối quê ông, nóng 39-40 độ C, cả làng vẫn đổ ra đồng muối đúng giữa trưa, "rang" mình trên từng thửa ruộng muối. Đàn ông cho chí đàn bà, chân trần dầm trong nước biển phơi cát, thắt ruột múc nước mặn đổ vào máng. Chân tay nứt toác, tứa máu, mặt mày sạm đen, quần quật cả ngày mới phơi được ngót tạ muối trắng. Làm gì có chỗ trú nắng như ở đây. Mỏi rạc chân, có bữa tưởng say nắng, vẫn còn đỡ hơn cái nắng như rang, như sấy người khô cong quắt. Dẫu sao, mỗi ngày còn kiếm được suất cơm bụi lèo tèo thịt cá, miếng đậu, mà ở nhà lấy đâu ra tiền ăn "hoang" thế.
Đám người ngồi trốn nắng hình như chẳng ai còn hơi sức góp chuyện. Mấy ông "xe ôm" vắt lưng dọc xe máy, co quắp như nằm võng. Trời đứng gió, nắng đổ ngập đầy mặt đất, như trút lửa xuống. Vậy mà đã nghe thấy tiếng ngáy đều đều của ai đó, ngon giấc như ngủ trong phòng máy lạnh. Ngay dưới gốc cây lỗ chỗ những đốm nắng lọt qua tán cây, mấy người đàn bà đồng nát, bán đồ sứ, quần áo trẻ em... trải ni-lông, bìa cát-tông, nằm thành hàng ngang, đuồn đuỗn như những khúc gỗ. Họ cứ vô tư, hồn nhiên y như trên bãi cát chiều lặng sóng, chứ không phải trên vệ cỏ úa ven đường giữa thành phố. Họ úp nón, mũ lên mặt, chìm vào giấc trưa díp mắt, nặng trĩu tiếng ve ra rả trên vòm lá héo hon vì nắng. Giấc ngủ chập chờn trong tiếng chim tu hú lạc lõng, uể oải. Có cả tiếng cu gáy bổ nhịp đều đều, khắc khoải nỗi buồn nhớ đồng quê hoang hoải. Tiếng chim như khoan sâu vào trưa hè khiến lòng người thêm bồi hồi, nôn nao. Chợt nhớ cái ao làng có xây gạch kè bờ. Hè về, già trẻ thường nhảy xuống ao bùn tắm táp, bơi lội thỏa thuê. Hai bàn chân mát lạnh vì bùn sâu, ngấm khắp cơ thể, thấm thía cái thú mùa hạ tắm ao...
Làng quê chỉ thấp thoáng thế thôi, rồi lại phải gạt sang một bên, vùng dậy đi kiếm tiền. Không đi lấy gì gửi về cho chồng, cho mấy đứa con đóng tiền học? Người này rủ người kia, hàng xóm, chị em họ hàng rủ nhau ra Hà Nội. Dắt díu nhau, thà mình sống khổ, sống tủi một chút nuôi con ăn học, may ra đời nó khá hơn. Bám mãi đồng ruộng, ăn còn chưa đủ, lấy đâu ra tiền cho con đi học. Thành phố chẳng thiếu gì việc vặt vãnh, xoay xở, nhặt nhạnh cũng có đồng ra, đồng vào. Nếu không có xe đạp, đôi quang gánh hay chiếc xe đẩy thì chịu khó làm phu hồ, đánh vữa, đổ bê-tông. Lo không có sức mà làm, bởi mùa này là mùa xây cất, nâng cấp, cơi nới khắp nơi. Cái nghề "ăn no vác nặng", có lẽ chỉ dành riêng cho những người chân quê vai u thịt bắp. Khi phá dỡ, đổ gạch đất, vôi vữa. Khi đào móng, chuyển cát, đá, xi-măng, sắt, thép. Nhất là lúc đổ bê-tông trần hay cất nóc, cứ ới một tiếng, cả chục người đàn bà thấp bé, nhẹ cân, khô đét đã ập đến. Đầu đội, vai vác, leo lên những cầu thang chông chênh, vắt vẻo trên giàn giáo cheo leo. Lấy đâu ra hơi sức quần quật từ sáng tinh mơ tới tối mịt, khi bữa trưa chỉ dám ăn một đĩa cơm đầy ụ rau cỏ, một nhúm tép riu, dăm bìa đậu. Ăn thế, làm thế, giữa nóng nắng mãi cũng hóa quen. Quán cơm bình dân lụp xụp, chật chội, chen chúc. Hơi nóng luẩn quẩn, hơi người và mùi thức ăn trộn lẫn không lối thoát. Không có quyền lựa chọn với túi tiền người bán rong, xe "ôm" dặt dẹo bến xe, góc phố. Ai nấy cắm cúi ăn, mồ hôi chảy ròng trên mặt, cay mắt. Mồ hôi rỏ xuống những hạt cơm nguội ngắt, xuống bát canh rau muống lõng bõng. Vẫn phải cố mà nuốt trôi. Không kêu ca, không quạt. Nóng thế, chứ nóng nữa cứ phải ăn mới có sức để "cày" trên đường nhựa...
Những người đàn bà tha hương cầu thực, hầu hết đã nhẵn mặt, mòn chân trong những xóm ngõ, nhà trọ tạm bợ. Cả chục người cùng quê quán, chòm xóm, chen chúc trong căn nhà chừng hai chục thước vuông. Nền nhà đấy, ai ngủ chỗ nào thì ngủ. Mùa đông rét mướt hay mùa hè nóng chảy mỡ, mỗi người chỉ đúng hai ô gạch. Có chỗ ngả lưng là tốt lắm rồi. Nếu may mắn gặp người chủ tử tế, tiền trọ, điện nước "dễ thở", trừ khoản cơm bụi, bỏ rẻ một tháng cũng giắt lưng ngót nghét đôi ba triệu. "Chôn" chân ở quê, bói đâu ra! Cũng đành bấm bụng để chồng ở nhà làm ruộng, lo chuyện con cái. Nhớ chồng, thương con, nhớ ruộng vườn, thắt ruột mãi rồi thành chai sạn, trơ lỳ. Mấy ai cứ canh cánh trong lòng, sống sao nổi. Đời mình vì nghèo mà thất học, đời con cũng thất học vì nghèo, hỏi đến bao giờ mới hết nghèo. "Trời chẳng đóng cửa ai", ai cũng tâm niệm như thế, cho thanh thản, nhẹ lòng. Cho quên đi thân phận dãi nắng, dầm mưa. Cho những đêm, chợt trở mình thức giấc giữa khuya khoắt, ngó lên mái nhà, có ánh trăng rằm lọt qua lỗ hổng. Bỗng dưng nhớ trăng quê tãi đầy sân gạch, mái hiên, bậc thềm. Trải manh chiếu rách, cả nhà nằm dưới ánh trăng mát rượi, gió đồng dào dạt. Ngọn cau, tàu chuối, giàn mướp ngỡ láng ướt ánh trăng. Chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết, đâu phải trằn trọc suốt năm canh như những đêm trăng ở thành phố.
Còn bao đêm, bao ngày dầu dãi nắng mưa? Vẫn biết, trăng khuyết rồi trăng lại tròn, đời người, phận người có theo quy luật đó không?