Niên hiệu, Miếu hiệu, Thái Tổ, Thái Tông
Xin GS Trần Huy Bích cho biết cách giải thích như trong youtube này có đúng không?
https://www.youtube.com/watch?v=Vnh8OUttfUU
Vì sao có tên gọi Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông?
Trả lời:
I. Niên hiệu:
Ở thời của chúng ta, nhờ dương lịch, chúng ta biết rằng (xin đưa vài thí dụ):
-Hội nghị Diên Hồng đời nhà Trần xảy ra năm 1284 (cuối thế kỷ 13)
-Nguyễn Trãi bị giết oan năm 1442 (giữa thế kỷ 15)
-Quân Pháp đánh Đà Nẵng năm 1858 (giữa thế kỷ 19)
Nhưng các cụ thời trước (nhất là ở đời Trần và đời Lê) chưa dùng dương lịch. Làm sao có thể xác định thời điểm của những sự kiện lịch sử ấy?
Theo sử cũ, Hội nghị Diên Hồng xảy ra năm Giáp Thân, toàn gia tộc Nguyễn Trãi bị tru di năm Nhâm Tuất.
Nhưng mỗi 60 năm lại có một năm Giáp Thân, một năm Nhâm Tuất. Làm sao ấn định được thời điểm cho chính xác?
Sách sử cũ dùng lối ghi như sau:
-Hội nghị Diên Hồng xảy ra năm Thiệu Bảo thứ 6.
Thiệu Bảo là niên hiệu của vua Trần Nhân tông.
Trần Nhân tông là vị vua thứ 3 của nhà Trần, sau các vua Thái tông và Thánh tông.
Khi lên ngôi, nhà vua chọn Thiệu Bảo làm "niên hiệu" để đánh dấu giai đoạn làm vua của mình.
Năm đầu tiên gọi là năm "Thiệu Bảo nguyên niên," các năm sau là Thiệu Bảo năm thứ 2, thứ 3 ... cho đến khi vua chết, hay truyền ngôi, hay đổi sang một niên hiệu khác.
-Toàn gia tộc Nguyễn Trãi tru di năm Đại Bảo thứ 3.
Đại Bảo là niên hiệu của vua Lê Thái tông, vua thứ 2 của nhà Hậu Lê, sau Thái tổ Lê Lợi.
Những chữ Thiệu Bảo, Đại Bảo ... là niên hiệu của các vua Trần Nhân tông, Lê Thái tông.
Sau khi các vua ấy qua đời, được thờ vào thái miếu, các vua ấy được tôn là [Trần] Nhân tông, [Lê] Thái tông.
Những chữ Thái tông, Nhân tông … là miếu hiệu. Các vua chỉ có miếu hiệu sau khi đã qua đời.
Có những vị vua chỉ dùng một niên hiệu. Vua Thái tổ nhà Lý (Lý Công Uẩn) và vua Thái tổ nhà Lê (Lê Lợi) chỉ dùng một niên hiệu: Thuận Thiên. (Hai vua này cũng chọn niên hiệu giống nhau: Thuận theo ý Trời). Các vua nhà Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ... Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại) cũng chỉ dùng một niên hiệu.
Nhưng có những vua dùng nhiều hơn một niên hiệu. Sau khi thắng quân Nguyên và khôi phục kinh đô Thăng Long cuối năm Giáp Thân (năm Thiệu Bảo thứ 6), vua Trần Nhân Tông quyết định từ năm tới, Ất Dậu, sẽ đổi sang niên hiệu Trùng Hưng (khôi phục lại).
Vua Lê Thánh tông cũng có hai niên hiệu. Nhà vua dùng niên hiệu Quang Thuận trong 9 năm đầu, Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, chia nước Chiêm làm 3, nhà vua đổi dùng niên hiệu Hồng Đức (đức lớn) từ năm Canh Thìn trở đi (sau chúng ta tính ra: Hồng Đức năm đầu, theo dương lịch là năm 1470).
II. Miếu hiệu:
Vị vua đầu triều đại thường được tôn là Thái tổ (vị tổ lớn lao). Các vua sau được tôn là "tông" (vị tổ thứ hai, sau vị tổ đầu tiên), với những từ tốt đẹp như Thái, Thánh, Nhân, Thần, Anh, Minh, Cao ...).
Miếu hiệu của các vua nhà Lý:
Lý Thái Tổ, tên húy Lý Công Uẩn.
Lý Thái Tông, tên húy Lý Phật Mã.
Lý Thánh Tông, tên húy Lý Nhật Tôn.
Lý Nhân Tông, tên húy Lý Càn Đức.
Lý Thần Tông, tên húy Lý Dương Hoán.
Lý Anh Tông, tên húy Lý Thiên Tộ.
Lý Cao Tông, tên húy Lý Long Cán.
Lý Huệ Tông, tên húy Lý Hạo Sảm.
Nhà Lý - Wikipedia tiếng Việt
Miếu hiệu của các vua nhà Trần:
1. Trần Thái Tông: 1225-1258
2. Trần Thánh Tông: 1258-1278
3. Trần Nhân Tông: 1279-1293
4. Trần Anh Tông: 1293-1314
5. Trần Minh Tông: 1314-1329
6. Trần Hiển Tông: 1329-1341
7. Trần Dụ Tông: 1341-1369
8. Trần Nghệ Tông: 1370-1372
9. Trần Duệ Tông: 1372-1377
10. Trần Phế Đế: 1377-1388
11. Trần Thuận Tông: 1388-1398
12. Trần Thiếu Đế: 1398-1400
Triều đại nhà Trần/Danh sách hoàng đế - Wikibooks tiếng Việt
Nhưng có những ngoại lệ:
1) Vị vua đầu của nhà Trần (Trần Cảnh) không được tôn là Trần Thái tổ mà chỉ là Trần Thái tông, vì khi cậu bé 8 tuổi được vợ (cũng lên 8) truyền ngôi lên làm vua thì người cha (Trần Thừa) vẫn còn sống.
2) Vị vua đầu của nhà Nguyễn (niên hiệu Gia Long) không được tôn là Thái tổ mà được tôn là Thế tổ, vì nhà Nguyễn đã dành miếu hiệu Thái tổ cho vị chúa sáng lập ra cơ nghiệp nhà Nguyễn, chúa Nguyễn Hoàng.
Thực ra chúa Nguyễn Hoàng không làm vua. Khi còn sống, tuy trấn giữ miền Nam (được tôn là “Chúa Tiên”), ông chỉ là Đoan quận công của nhà Lê. Nhưng sau khi lên ngôi, vua Gia Long “truy tôn” tất cả các chúa Nguyễn với danh hiệu “Hoàng đế”. Chúa Nguyễn Hoàng được tôn là “Thái tổ Gia dụ Hoàng đế.” Khi Nguyễn Hoàng được tôn là “Thái tổ” thì vua Gia Long (Nguyễn Ánh) chỉ được tôn miếu hiệu Thế tổ thôi.
3) Với nhà Nguyễn, ba vua đầu cùng được tôn miếu hiệu "tổ".
Sau đây là niên hiệu và miếu hiệu của bốn vị vua đầu của nhà Nguyễn:
Gia Long : Thế tổ Cao Hoàng đế
Minh Mạng: Thánh tổ Nhân Hoàng đế
Thiệu Trị : Hiến tổ Chương Hoàng đế (ba vị được tôn là “tổ”).
Tự Đức : Dực tông Anh Hoàng đế (từ đây chỉ được tôn là "tông" thôi).
Hi vọng sau khi đọc tới đây, anh đã có ý niệm rõ hơn về các từ niên hiệu và miếu hiệu.
Thân,
thb