Con dê có lẽ là một trong những loài vật gắn bó sớm nhất với cuộc sống của con người. Từ xa xưa, trong nền văn hóa săn bắt và hái lượm, dê đã được thuần dưỡng để lấy sữa, thịt,… như những thực phẩm thiết yếu nhất. Điều này được phản ảnh trung thực qua hình ảnh Robinson[1] một mình ngoài đảo hoang như hình ảnh con người tiền sử: bắt dê, thuần dưỡng dê, thức ăn từ con dê, trang phục từ đầu tới chân làm bằng da dê, sống với dê như bầu bạn…
Với khả năng thích nghi tốt trên nhiều địa hình, con dê đi vào đời sống, văn hóa của nhiều dân tộc khác nhau, để lại hệ thống huyền thoại, biểu tượng mang ý nghĩa vô cùng phong phú và đa dạng. Từ bản năng sinh sản cường tráng đến độ trơ trẽn, dê (đặc biệt là dê đực) trở thành biểu tượng của thói dâm đãng. Dê đực tượng trưng cho mãnh lực và nhu cầu tính dục vì loài dê vốn tràn đầy sinh lực tình dục trong thực tế một con dê đực có thể giao phối với cả đàn dê đực khác và cũng từ đây con dê lại bị nhìn nhận là đại diện cho thói dâm đãng với hình tượng condê già hay máu dê của đàn ông. Từ chiều dài lịch sử gắn bó với đời sống con người, dê trở thành cống phẩm để chuộc tội hoặc dâng hiến cho thần linh, và đó là lý do khởi nguyên con dê trở thành biểu tượng cho sự hiến tế ở cả hai nền văn hóa Đông-Tây.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ muốn đưa ra một vài hình ảnh loài dê trong cuộc sống và nhiều lĩnh vực khác nhau từ điển cố văn học đến những thành ngữ, thuật ngữ và cả tiếng lóng ngày nay để giúp cho chúng ta có cái nhìn khái quát về hình ảnh loài dê hơn.
Điển tích văn học
Ở Trung Quốc có nhiều điển tích gắn liền với con dê, chứng tỏ nó gần gũi trong cuộc sống của người Trung Quốc, nổi tiếng thì có điển tích Dương xa (xe dê kéo), cụ thể là vua Tấn Võ đế của Trung Quốc thường dùng xe dê kéo đi mỗi đêm trong cung cấm, hễ dê dừng ở cửa phòng cung phi nào tức đêm ấy nhà vua sẽ ngủ với cung phi đó. Nên hàng trăm cung phi mỗi đêm tìm lá dâu non loại lá mà dê háu ăn rồi đặt trước cửa phòng để xe dê dừng lại. Nhưng không được vua đến tìm thú vui, thì người cung nữ cảm thấy cô đơn lạnh lẽo. Và điều này được phản ánh qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc[2]:
Phải duyên hương lửa cùng nhau
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Điển tích với Tô Vũ chăn dê gắn liền với một vị tôi trung tên Tô Vũ[3] của nhà Hán khi đi sứ mang đất Hung Nô, bị Thuyền Vu Hung Nô giữ không cho về và truyền lệnh đầy ông này lên phương bắc (Bắc Hải), vắng như sa mạc, tuyết phủ quanh năm. Ông này phải chăn một đàn dê đực, với sắc chỉ của chúa Hung Nô: Bao giờ trong đàn dê, dê đực đẻ con, sứ thần Tô Vũ được trở về đất Hán. Sau này nhà Hán thực hiện chính sách ngoại giao hòa hoãn với Hung Nô, Tô Vũ mới được tha về và ông này trở thành một tấm gương về tinh thần trung quân ái quốc của Trung Quốc.
Người nước Lỗ thời trước hay mổ thịt dê đực làm lễ Cốc sóc[4], về sau lễ ấy được bỏ đi nhưng người ta vẫn theo lệ mà nộp dê. Tử Cống muốn bỏ hẳn lệ ấy đi, nhưng Khổng Tử lại bảo ngươi tiếc con dê còn ta thì tiếc cái lễ ngầm nói rằng triều vua bây giờ đã suy, bỏ mất lễ Cốc sóc nhưng vẫn giữ tục nộp dê thì người ta vẫn nhớ đến lễ ấy và lễ cốc sóc không mất hẳn. Trang Tử đã có kể chuyện về người bán thịt dê nước Sở, có công phò vua, nhưng từ chối công khanh chức tước. Sách Liệt Tử[5], kể chuyện một con dê mất, nhiều người đi tìm, nhưng không kiếm ra vì đường đời lắm ngã rẽ.
Vật hiến tế
Do dê được thuần dưỡng từ rất sớm, sử dụng phổ biến, liên tục, lâu dài, mang giá trị vật chất đa dạng và mật thiết, nên dê cũng tạo giá trị tinh thần phong phú ảnh hưởng đến tâm linh và đời sống văn hóa nghệ thuật của người Việt Nam. Đối với người Việt Nam, dê cũng tạo ra giá trị tinh thần phong phú, ảnh hưởng sâu rộng đến tâm linh và đời sống văn hoá nghệ thuật của người Việt Nam. Nó là một trong sáu con vật nuôi thông dụng nhất trong Lục súc gồm dê, gà, chó, lợn, ngựa, trâu và một trong ba thứ lễ vật đặc biệt để cầu cúng, tế dâng thánh là tam sinh gồm dê, lợn, bò.
Sách Lĩnh Nam Chích Quái ở chương đầu tiên, về họ Hồng Bàng, đã kể lại rằng từ thời xa xưa, người Việt trong hôn nhân, đã biết giết trâu, dê làm đồ lễ, con dê đã được nuôi làm gia súc và sử dụng vào việc tế lễ. Vào giữa thế kỷ 16, trong bài Đào Nguyên Hành thì Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan đã tả cảnh nông thôn Việt Nam là
Trâu bò, gà lợn, dê ngan
Đầy lũ đầy đàn, rong thả khắp nơi.
Vào thời nhà Nguyễn, con dê chỉ được sử dụng trong việc tế lễ:
Dê vốn thật thuộc loài tế lễ
… Để hòng khi tế thánh tế thần
… Hễ có việc lấy dê làm trước
Dê dâng vào người mới lạy sau.
Theo Ðại Nam thực lục Chính Biên, dưới triều đại vua Minh Mạng, mùa Ðông năm Minh Mạng (1836) thứ 17, nhà vua sai mua 220 dê đực và 100 dê cái, chọn 20 con dê đực giao Tể sinh làm lễ vật tế lễ Nam Giao, đặt tại đàn Thượng có thịt dê ướp dương hải.
Văn học Việt Nam
Dê cũng là hình ảnh tiêu biểu đi vào thơ văn Việt. Trong tác phẩm Hịch Tướng sĩ, Trần Hưng Đạo cũng có nhắc đến hình ảnh con dê và coi đó là biểu hiện của bọn sứ giả Mông Cổ chỉ bằng loài dê chó nhưng hống hách, ngạo mạn:
Uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình
Đem thân dê chó mà ngạo mạn tể tướng.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu có câu gởi phần tâm sự và lời chê trách người cộng tác với thực dân, làm tay sai dày xéo dân tộc khổ đau vì nô lệ:
Hai vầng nhật nguyệt chói loà
Đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nhà thơ Bùi Giáng cũng có một thời kỳ chính ông cũng một thời chán đời về mua dê và chăn dê ở quê nhà, núi đồi Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong khoảng từ (1945 đến 1952), ông đã có bài thơ cảm khái trong đó mô tả về loài dê.
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút dòng khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be
Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả
Ðeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! Đây lòng anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên…
Trong Lục Vân Tiên, bộ mặt của Bùi Kiệm đã từng giở trò với Kiều Nguyệt Nga, trở thành trơ trẽn qua câu thơ:
Con người Bùi Kiệm máu dê
Ngồi chai bộ mặt như giề thịt trâu.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng từng miêu tả về những nhu cầu tính dục khá thầm kín thông qua từ ngứa, buồn (chích), húc:
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.[6]
Trong thành ngữ, thuật ngữ và từ lóng
Trong ngôn ngữ Việt Nam, hình ảnh dê xuất hiện khá đa dạng, sinh động, hấp dẫn và đầy ngụ ý. Dê (dương) ở nhiều lĩnh vực ngôn từ tự nhiên và xã hội, lý thuyết sách vở và giao tiếp thực tiễn. Dê được lấy làm đối tượng cho nhiều câu ngạn ngữ, tục ngữ, thành ngữ, ca dao sinh động, dân dã như:
Bán bò tậu ruộng, mua dê về cày chê cách thức làm ăn không biết tính hay thuật ngữ Cà kê dê ngỗng đánh giá sự kể lể tản mạn, dài dòng huyên thuyên những chuyện lặt vặt, ngoài lề. Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng là kinh nghiệm lựa chọn những hoạt động phù hợp với năng lực, hoàn cảnh
Thuật ngữ nổi tiếng: Treo đầu dê, bán thịt chó chỉ về sự không thống nhất giữa nội dung và hình thức, Chỉ người nói một nơi, làm một nẻo nói và làm không ăn khớp nhau (trong câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Lận thế treo dê mang bán chó
Lập danh cỡi hạc lại đeo tiền.
Trong ca dao, văn học dê cũng hiện lên sinh động:
Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi
Em đây luống những ngậm ngùi tuổi Thân.
Trẻ em nhà quê khi chơi trò dung dăng dung dẻ thường thuộc lòng bài đồng dao vui nhộn
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Cho Cháu về quê
Cho dê đi học
Cho cóc ở nhà
Cho gà bới bếp.
Hình ảnh dê trở nên sinh động, gần gũi hơn qua những trò chơi và lễ hội truyền thống. Nếu như ở phương Tây, có trò chơi đếm cừu thì ở Việt Nam có trò bịt mắt bắt dê rất vui vẻ. Trò chơi này thường được tổ chức trong các ngày vui (Hội đầu xuân, trung thu…) hoặc các cuộc chơi thể thao văn hoá dân dã, với cách khác nhau tùy thuộc đối tượng tham dự. Đối với trẻ con, trò chơi này là thú vui hồn nhiên, nhưng đối với các cô cậu thanh niên, thiếu nữ là một dịp để tiếp cận, đụng chạm về thể xác vui đùa với nhau, vượt qua ranh giới nam nữ của phong kiến.
Giả vờ bịt mắt bắt dê
Để cho cô cậu dễ bề… với nhau.
Về tự nhiên, với bản tính giao phối và sinh sản rất mạnh nên dê được gán cho hình tượng của sự dâm đãng và thô tục, điều này là điểm tương đồng trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Chính vì khả năng sinh lý của mình, con dê gắn liền với nhiều thành kiến. Người ta hay dùng từ Máu dê để chỉ những người có ham muốn, không kiểm soát và muốn thể hiện khả năng sinh dục mạnh mẽ, thói dê khái quát bản tính ham chinh phục người khác giới hay sự dâm tiện, dê cụ hay dê già chỉ kẻ rất dâm đãng, dê xồm cũng có nghĩa tương tự.
Râu dê mô tả bộ râu rậm, dài, hơi cong và cũng là hình ảnh khêu gợi, tiếng kêu be be của con dê đôi khi cũng gợi lên tiếng cười dâm dật hoặc là để chọc ghẹo một người nam nào đó đang nói chuyện hoặc ve vãn phụ nữ; dê còn là từ chỉ hành vi sàm sỡ người khác. Người Việt Nam thì gọi là dê, dê xồm, dê cụ, dê già, dê gái, máu dê. Người Mỹ cũng có cụm từ Let go you randy old goat!, tạm dịch: buông tao ra, đồ dê già. To get somebody’s goat, tạm dịch là quấy rối hoặc trêu gan (ai đó).
Ở Việt Nam, những người sinh vào năm dê đều mang tuổi Mùi, hình ảnh một con dê cụ:
Tuổi Mùi là con dê chà
Có sừng, có gạc, râu ra um sùm
Trong văn chương và trong văn hóa Việt nam, hình ảnh con dê thường bị nhìn dưới một khía cạnh châm biếm. Vì con dê đực có khả năng truyền giống rất mạnh, nên người ta thường ví những ông có máu thích lang chạ trong vấn đề tình ái và tình dục với biệt hiệu Dê xồm. Tục ngữ Việt nam có câu:
Bươm bướm mà đậu cành bông
Ðã dê con chị, lại bồng con em.
Những “ông dê xồm” này bị người đời coi khinh, vì họ không theo khuôn phép thuần phong mỹ tục. Cho nên tục ngữ Việt Nam mỉa mai những người này là
Phượng hoàng đậu nhánh sa kê
Ông thần ổng hổng vật mấy thằng dê cho rồi.
Người ta cũng thường liên hệ giữa con dê và người có máu dê và thường chỉ trích và cảnh cáo những kẻ già đa tình hay sàm sỡ một cách bừa bãi, có ngày gặp tai nạn:
Dê xồm ăn lá khổ qua
Ăn nhiều sâu rọm, chết cha dê xồm
Một con dê đực có thể giao phối với nhiều con dê cái trong một ngày cho nên cụm từ dê ám chỉ khả năng tính dục rất mạnh hoặc thói dê xồm của một ai đó. Dê, dê gái, thói dê còn đươc dùng để chỉ hành vi sàm sỡ, quấy rối tình dục phụ nữ.
Con số 35 gắn liền với loài dê xồm và những ai rành rẽ về cờ bạc, đề đóm thì chắc chắn rõ nhưng ít ai biết được vì sao loài dê lại trở thành biểu tưởng của con số 35. Chỉ duy nhất ở Việt Nam thôi, hình thức chơi đề đã tạo nên một hệ thống những con số gắn liền với các loài vật. Tìm hiểu nhiều từ nguồn, chúng tôi có thể lấy ra một lời giải thích khá phù hợp cho con số 35 là: vào thập niên 1960, sòng bạc Kim Chung ở Đại Thế Giới (thuộc quận 5, TP.HCM bây giờ) người ta bày ra trò xổ số trúng thưởng - tiền thân của chơi đề sau này. Ngày ấy, chẳng phải ai cũng biết chữ, biết số nên nhà cái mới vẽ hình những con thú, đồ vật… gắn bó với dân gian để người chơi đặt tiền vào. Ví dụ số 1 là con cá trắng, số 2 là con ốc, số 3 là con vịt, số 4 là con công… số 12 là con ngựa… và số 35 là con dê… cho đến cuối cùng số 40 là ông Táo. Từ đó con số 35 gắn với dê, nên chỉ cần nói “cái đồ 35” là hiểu ngay câu mắng dành cho người có tính dê gái!
Tóm lại, dê đã phổ biến và xuất hiện gắn liền với đời sống nhân loại từ rất lâu nên việc ảnh hưởng của loài dê trong cuộc sống rất lớn. Từ văn học, thành ngữ, thơ văn cho đến sức khỏe của con người. Hy vọng rằng với một năm Ất Mùi, tất cả mọi điều thịnh vượng, an lạc, sức khỏe và thành công sẽ đến với mọi nhà, mọi người.
(Tổng hợp từ nhiều nguồn)
____________________________________________
[1] Robinson Crusoe là tiểu thuyết của nhà văn Anh Daniel Defoe, tên tiếng Anh đầy đủ: The life and strange surprizing adventures of Robinson Crusoe of York, Mariner (Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kỳ thú của Robinson Crusoe, người thủy thủ xứ York), xuất bản lần đầu tiên năm 1719.
[2] Cung oán ngâm khúc là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song thất lục bát.
[3] Tô Vũ là một nhà ngoại giao và là một trung thần đời vua Hán Vũ Đế (140 TCN-87 TCN).
[4] Cốc nghĩa là báo cáo, sóc tức là ngày mồng một. Cốc sóc là buổi lễ dành cho vua chư hầu tế cáo tổ tiên tại mếu đường mỗi tháng vào ngày mồng một, trước khi họp tại triều đình cùng bách quan. Trong buổi lễ có lệ dâng một con dê sống trước bàn thờ tổ tiên.
[5] Liệt tử là sách của Liệt Ngữ Khấu soạn ra. Sách có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là “Sung hư chân kinh” hay “Sung hư chí đức chân kinh”.
[6] Trích “Mắng học trò dốt”.