Ngữ văn

ThS. Lê Bá Miên

Khoa Ngữ văn - ĐHSP 2 - Xuân Hòa - Mê Linh - Vĩnh Phúc.

Chuyên mục Giao lưu chia sẻ của tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 9 (123) tháng 9 / 2006 có bài trả lời của nhà giáo Đình Cao cho câu hổi của em Vũ Ánh Dương về việc xác định kiểu cấu tạo của từ che chở. Sau khi phân tích, câu trả lời đi đến khẳng định: “Vậy có thể kết luận che chỏ là từ ghép đẳng lập, như đáp án A mà Phòng Giáo dục chọn, chứ không phải từ láy bộ phận như đáp án D mà bạn Ánh Dương chọn. Tuy nhiên, ta cũng không thể bác bỏ ý kiến thứ ba rằng che chở là hình thức trung gian giữa tự ghép đẳng lập và từ láy đôi…”. Chúng tôi xin phép được trao đổi thêm về kết luận này.

Trước hết, cần nói ngay rằng, việc xác định một từ cụ thể như từ che chỏ là từ láy hay từ ghép là nói đến một vấn đến khá lớn, khá phức tạp của tiếng Việt. Đó là câu chuyện về việc xác đinh từ và phân loại các từ của tiếng Việt theo các kiểu cấu tạo. Câu chuyện này đã từng tốn bao công sức và giấy mực của nhiều nhà Việt ngữ học mà đến nay cũng không ai còn lật xới lên làm gì. Tuy nhiên với một từ cụ thể ở một lớp học cụ thể cho một đối tượng học tập cụ thể, thiết nghĩ chúng ta cũng nên làm sáng rõ. Điều này có thể sẽ là những gợi ý tốt cho những người làm sách và những người giảng dạy ở một cấp học, một lớp học nhất định.

Về mặt lí thuyết, từ láy và từ ghép tiếng Việt có những điểm khác nhau cơ bản. Thứ nhất, từ láy là những từ được tạo ra từ phương thức láy. Đây là phương thức lặp lại toàn bộ hay một bộ phận hình thức âm tiết của tiếng có nghĩa (tạm gọi là tiếng gốc) nhờ sự “nhân đôi tiếng gốc”. Chẳng hạn: nhẹ à nhẹ nhàng, nhẹ nhõm; rối à rối ren, bối rối. Các từ ghép lại được tạo ra từ phương thức ghép. Đó là phương thức kết hợp các tiếng có nghĩa lại với nhau trên cơ sở của các quy tắc vế ngữ nghĩa và ngữ pháp. Chẳng hạn: nhà + cửa à nhà cửa; xe + máy à xe máy. Như vậy hai loại từ này có cách thức cấu tạo hoàn toàn khác nhau. Từ láy dựa trên quy tắc hoà phối về mặt ngữ âm (thanh, âm, vẩn) giữa tiếng gốc và tiếng láy còn từ ghép là sự kết hợp giữa các tiếng gốc với nhau theo quan hệ ngữ nghĩa (cùng cấp hay cấp loại) và ngữ pháp (đẳng lập hay chính phụ). Thứ hai, ở từ láy, một tiếng có nghĩa (tiếng gốc) và một tiếng không có nghĩa (tiếng láy) còn ở từ ghép, các tiếng đều có nghĩa. So sánh các từ làm lụng và làm ăn, làm duyên… sẽ thấy rõ. Cuối cùng xét về ý nghĩa của cả từ, từ láy và từ ghép cũng có những khác biệt rất cơ bản. Ý nghĩa của từ láy là ý nghĩa “sắc thái hoá” so với ý nghĩa của tiếng gốc. Tính chất “sắc thái hoá” làm cho ý nghĩa của từ láy về cơ bản vẫn giống với ý nghĩa của tiếng gốc. Chính cái cơ chế “trượt để nhân đôi từ tô’ gốc” (Hoàng Văn Hành) đã làm cho ý nghĩa của từ láy “đồng nghĩa” với ý nghĩa của tiếng gốc nhưng ở những sắc thái khác nhau. Cũng từ đó mà các từ láy có tinh hình ảnh và tính biểu cảm rất cao. Chẳng hạn đờ à đờ đẫn, lờ đờ: gầy à gầy gò, gầy guộc; nhỏ à nhỏ nhắn, nhỏ nhen, nhỏ nhẻ… ở các từ ghép, do chỗ phương thức ghép tác động đồng thời vào các tiếng có nghĩa nên ý nghĩa của cả từ là ý nghĩa “đột biến” so với ý nghĩa của từng tiếng được gộp lại. Nói khác đi, ý nghĩa của từ ghép đã khác hẳn so với ý nghĩa của từng tiếng rời. Ý nghĩa ấy có thể là rộng hơn, khái quát hơn (chẳng hạn: àn + ỏ à ăn ỏ, có nghĩa: cư xử, đối xử với nhau trong cuộc sống), cũng có thể hẹp hơn, cụ thể hơn (chẳng hạn: xe + máyà xe máy, có nghĩa: xe người đi, có hai bánh, chạy bằng động cơ).

Cũng cần nói thêm rằng, các phương thức tạo từ ghép và láy đều là những phương thức tạo ra hàng loạt từ với cùng kiểu cấu tạo và kiểu ý nghĩa chứ không chỉ tạo ra một vài từ riêng rẽ, lẻ tẻ, rời rạc.

Từ những hiểu biết như trên, đối chiếu với từ che chở, ta thấy, về mặt ngữ âm, các tiếng có sự hoà phối đúng với quy tắc của phương thức láy. “Che” và “chở” đểu có thanh điệu ở âm vực cao (ngang - hỏi); phần âm đầu lặp lại (ch-ch-); phần vần, trong đó âm chính (-e-ơ) có sự đối lập hàng trước - hàng sau. Xét về ý nghĩa của các tiếng, “che” có nghĩa “làm cho người ta không còn nhìn thấy được bằng cách dùng một vật ngăn hoặc phủ lên” (Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, 2000) còn “chở” không có nghĩa. Vì theo cơ chế láy, “chở” chẳng qua chỉ là sự biến dạng của “che” do tác động của phương thức láy như đã nói ở trên. Còn như cho rằng “chở” cũng có nghĩa thl đó là nghĩa gì, chứ nghĩa ấy không giống với “chở” trong từ chuyên chở. Ta đều biết, “chuyên chở” là một từ ghép đẳng lập, trong đó tiếng chuyên có nghĩa là “mang, chuyển từ tay người này sang tay người kia” (Từ điển tiếng Việt. 2000) còn tiếng chở có nghĩa là “mang, chuyển đi nơi khác bằng tàu bè, xe cộ” (Từ điển tiếng Việt, 2000). Như vậy, hai tiếng này có ý nghĩa cùng một phạm trù. Còn trong từ che chở. hai tiếng đi với nhau trái với quy luật này. Chúng tôi thiết nghĩ, không nên theo cái lôgic, nếu một tiếng không rõ nghĩa ở từ phức này mà thấy nó xuất hiện ở những từ phức khác có tiếng gốc khác nhau thì kết luận là nó có nghĩa giống nhau.

Chẳng lẽ, “mẻ” trong “mới mẻ” có nghĩa như “mẻ” trong “sứt mẻ”; “may” trong “múa may” cũng giống với “may” trong “may mặc” và “lùng” trong “lạnh lùng” cũng là “lùng” trong “lùng bắt” hay sao? Đây là vấn đề đã vượt quá xa so với bài viết này nên xin phép không bàn tới. Cũng phải nói thêm rằng, trong từ vựng tiếng Việt những từ ghép đẳng lập có tiếng che phải là dãy các từ như: che chắn, che đậy, che lấp, che phủ, bao che v.v…

Nhân đây cũng phải nói luôn, ý nghĩa của những trường hợp như “han”

trong “hỏi han”, “đìa” trong “đầm đìa” “chiền” trong “chùa chiền”, “nớt” trong “non nớt”, “nhót” trong “nhảy nhót” và “thang” trong “thuốc thang” là những trường hợp khác, không thể xem xét như “chở” trong “che chở” được. Vì thế cũng không lạm bàn ở đây.

Cuối cùng, chúng ta thấy, trong hệ thống từ vựng tiếng Việt “che chở” nằm trong loạt các từ láy có mô hình cấu tạo như sau: tiếng gốc - tiếng láy (vấn của tiếng láy): G - L (- Ơ -) bắt bó, che chở, dấm dớ, gặp gỡ, gật gờ, lãi lờ, lẳng lơ. lửng lơ, lượn lờ, màu mỡ, mắc mớ, nham nhỏ, nhắc nhở, nhăn nhở, nhu nhơ, phất phơ, sàm sỡ, xoay xở, tráo trỏ, vẩn vơ…

Từ những điều trình bày trên, chúng tôi để nghị nên xếp “che chở” vào kiểu từ láy bộ phận. Đó là kiểu láy âm, một kiểu láy có số lượng từ nhiều nhất trong các từ láy đôi của tiếng Việt.

Link nội dung: https://stt.edu.vn/che-cho-co-phai-tu-lay-khong-a18206.html