Vanvn- Tôi vốn là người làm thơ, ít viết văn xuôi, lại chẳng phải là tác giả lý luận hay phê bình. Nhân mùa hội thảo tôi chỉ muốn được cung cấp, viết lại cho chúng ta nhìn nhận hơn về thực trạng người trong cuộc tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nói về văn xuôi như thế nào 50 năm như thế nào… (Nói đúng hơn là minh họa được tôi trích ra từ các tác phẩm, bài viết lượm lặt được mấy mươi năm qua thôi, mong các tác giả có trong bài tôi dẫn chứng cảm thông cho).

Để bàn việc nhìn lại về mảng văn xuôi hơi lâu dài này, thiết nghĩ không thừa để chúng ta cùng ghi nhận một sự thật chung - Văn xuôi ĐBSCL một thời kỳ 50 năm có tác phẩm đỉnh cao, tác phẩm lớn ngang tầm thời đại chưa? Hay mới chỉ có tác phẩm hay? Còn việc đầu tư cho tác giả và tác phẩm mấy năm qua cho nhà văn ĐBSCL, Hội Nhà văn Việt Nam đã đầu tư thế nào, bao nhiêu… các nhà văn chúng ta đã biết cả rồi.
Có rất nhiều tác giả ở ĐBSCL luôn nói với nhau rằng: Viết dở, hay là do bẩm sinh trời cho mới có chứ đâu phải do học hành gì. Có đầu tư cũng viết, không có cũng viết. Nhà văn lão thành Trang Thế Hy sinh thời đã tự nhận xét về mình: “Tôi tự đánh giá mình có được tạo hóa nhểu cho vài giọt năng khiếu bẩm sinh về văn chương nhưng bản thân kém ý chí và thiếu sự đam mê nghề nghiệp nên không có thành đạt đáng kể”.
Đến đây tôi lại nhớ ngay bài “Từ nói đến viết” của nhà văn Ngô Khắc Tài, xin trích ra sau đây:
“… Bệnh trịch thượng, kẻ cả - nó là những hạt sạn hay bắt gặp ở mấy tờ báo lớn, giống như người lọt vô một tầng lầu cao, ở trên nhìn xuống đất thấy mọi thứ đều nhỏ bé. Và người ta mặc sức nói năng. Xin nêu ra đây một vài trường hợp. Hầu như những người viết ở Nam Bộ có chút tiếng tăm đều được phán xét tiếp tục truyền thống văn phong Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh. Tôi dám đoan chắc rằng những người viết kia chưa hề đọc hai nhà văn vừa nêu bao giờ. Kể cả ông Đoàn Giỏi, ông Nguyễn Quang Sáng cũng bị nhận xét như vậy. Hồi ông Đoàn Giỏi còn sống có nói “Tất nhiên muốn trở thành nhà văn phải chịu ảnh hưởng nhiều người, đâu phải chỉ có Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh”. Nhưng Đoàn Giỏi chỉ phản ứng miệng, riêng anh Nguyễn Quang Sáng thì nhẹ nhàng trả lời trên báo: “Tôi đi kháng chiến từ lúc nhỏ đâu có đọc nhiều. Sau nầy viết rồi, có tên tuổi rồi mới có dịp đọc Hồ Biểu Chánh”. Với những người trẻ tuổi ngoài Hồ Biểu Chánh còn kết thêm ông Sơn Nam. Thí dụ như Nguyễn Ngọc Tư có người viết Tư tiếp tục phong cách Sơn Nam, (cái nầy đúng, sai xin để bạn đọc nhận xét). Đặc biệt khi Nguyễn Ngọc Tư mới xuất hiện, rất nhiều người tuyên bố mình là người đầu tiên khám phá ra tài năng trẻ. Đặc biệt nhất có một người viết trên tờ báo lớn “nhìn gương mặt u u minh minh của tác giả tôi không biết viết lách ra làm sao, chẳng tin tưởng lắm. Sau đó đọc thấy tạm được …”. Và coi như mình là người đã phát hiện. Dân Nam Bộ coi u u minh minh đồng nghĩa với hắc ám, miệt thị. Bạn xem viết lách như thế có phải là trịch thượng không, giả dụ cho nói chơi đi cũng không được phép đùa trên diễn đàn.”
Ừ thì vậy nên trong tản văn “Gió thổi suốt đêm” của Nguyễn Ngọc Tư (một trong các tản văn tôi thích) có viết:
“ … Lúc nhỏ tôi tưởng ở nhà lá, nhà rách, ở giữa vườn tược đồng bãi vắng vẻ người ta mới thao thức. Nhưng cái xóm chợ sôi động mà tôi từng ở trọ nhiều năm, hừng đông hàng xóm thường rộn rã kể chuyện đêm. Và những người đàn bà vận động buổi sớm mai, khu nhà họ ở rất sang trọng, chắc chắn và yên tĩnh, làm sao họ biết suốt đêm rồi gió chạy đuổi điên cuồng? Giữa những lớp cửa kính kín đến mức chuông gió không lay, có phải họ nghe gió bằng cảm giác, bằng bản năng, ký ức…?
Tôi chỉ chắc chắn một điều, khi tôi thức viết một trang sách, tôi biết giờ phút đó trong những ngôi nhà nào đó cũng có nhiều người đàn bà thức giấc. Để khép một cánh cửa, để ém lại vách mùng đã bị trẻ con đạp tung ra, để chờ tiếng bước chân của đứa con còn chơi lêu lỏng ngoài đường, để thảo một bức thư, để nhớ một người xa… “
Còn Ngô Khắc Tài trong “Số phận cô Ba Sương qua bài ca dao Cò trắng đi đêm” - (Cô Ba Sương, người được phong Anh hùng lao động, nguyên là Giám đốc Nông trường Sông Hậu ) Anh viết:
“Tôi không biết mình có đi quá xa đến hút giới hạn. Từ câu mở đầu (con cò mà đi ăn đêm) liên tưởng đến, ngày nay bất cứ công việc làm ăn nào đều phải trãi qua những thủ tục rườm rà, rồi nó dẫn đến chuyện lót tay, bôi trơn v.v… Tất nhiên những chuyện như vậy không diễn ra ngoài ánh sáng, có ý nghĩa là đi ăn đêm. Thật là tội sao cho thân cò. Đã đi ăn đêm là phải nguỵ trang cho khéo léo để không ai phát hiện, đằng này con cò mang đôi cánh trắng đi ăn đêm. Ban đầu những thứ xã giao bôi trơn lập quỹ đen dự phòng còn chấp nhận được không trái luật lệ lắm… nhưng dần dần chính nó là cái bẫy chết người, như cò vô tình đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao trở thành tên tội đồ phạm luật.
Luật là luật, ai phạm pháp ráng mà chịu, xã hội đã qui định như vậy cò khó lòng thanh minh.
Chi tiết: Cuối cùng cò chỉ biết cúi đầu nài nỉ van xin (ông ơi ông vớt tôi nao - tôi có lòng nào ông nỡ xáo măng). Nhưng mà ai nghe lời van xin kia. Chắc là không có ai. Hoàn cảnh của con cò bỗng dưng làm ta phải bùi ngùi thương hại suy nghĩ thêm, bất ngờ vào giây phút cuối cùng cò biết giữ tiết tháo, sợ ô uế để lại tiếng xấu cho con cho đời sau. (có xáo thì xáo nước trong - đừng xáo nước đục đau lòng cò con). Bài ca dao trở nên sâu sắc là ở điều này. Theo lẽ thông thường con cái tỏ lòng hiếu thảo ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ, còn có việc con cái không làm gì sai quấy làm nhục cha mẹ để cha mẹ phải buồn lòng. Bất ngờ vấn đề ở đây được đặt ngược lại, cha mẹ nuôi con nhưng không để con phải mang tiếng xấu lây vì có cha mẹ làm không đúng. Nhờ có sự đặt ngược ấy
ta cảm thấy xót xa thầm hỏi đâu mới là nguyên nhân đưa đẩy con cò lỡ bước sa cơ và cha mẹ của con cò mẹ kia là ở đâu. Tình cờ cái mà ta không biết tìm đâu cứ theo thấp thoáng ẩn hiện nhưng xã hội nhờ đó mà tiếp tục tồn tại có hậu. Có phải đó là lương tâm con người, lương tâm của cả tập thể xã hội”.
Với nhà văn Vũ Hồng, trong truyện “Miền Tây huyền thoại”: “Bị sức cản, nước chảy chậm hẳn đi. Cố tôi vội la: “Lấy rơm, lấy rơm!” Bấy giờ mọi người mới sực tỉnh, túa ra. Người thì ôm những bó rơm bện sẵn quăng ào ào trước mũi đàn trâu. Người thì chuyền đất quăng vào khoảng trống dưới bụng trâu. Vừa chặn nước bằng rơm phía trước, vừa chèn đất phía sau, cho đến lúc bức tường thành được hàn kín như cũ. Dĩ nhiên là chôn đàn trâu cả trăm con trong đó. Thoát chết mà không ai vui, ai cũng buồn, nhất là mấy bà thấy mấy con nghé con vừa ra đời được một, hai ngày đứng e e gọi mẹ thì mấy bà cứ khóc hoài. Trâu là con vật linh thiêng ông à. Chúng biết để nước tràn vào ngập cả xóm thì tất cả đều chết nên chúng nhận cái chết về mình thay cho con người. Cuộc đời của những con vật sống có nghĩa là như vậy đó, bác sĩ Minh. Cái ngày cố tôi lập đền thờ Thần Ngưu, ổng đã thề rằng, người trong họ chúng tôi không bao giờ được ăn thịt trâu, nếu ai cãi thì đã xem như tự đổi sang họ khác. Tới đời tôi còn giữ được ước nguyện của người xưa nhưng không biết đời sau sao đây? Ông nằm nhắm mắt mà ngủ hay còn thức đó, bác sĩ? Thức à. Tối mai nếu ông còn ở lại tôi kể cho ông nghe một chuyện nữa của ông bà tôi. Giờ thì tôi phải đi một vòng đê coi nước lên xuống cỡ nào.”
Hay giọng văn Võ Diệu Thanh trong truyện ngắn “Người đàn bà vô hình” “… Đĩnh rải lá gòn ra sân phơi. Cậu phải xay nhiều lá gòn vì mấy đứa nhỏ của mợ Thị cần phải ăn cơm. Mỗi lần nhìn đám lá xơ xác dưới nắng Đĩnh cười khặc khặc. Mình có ghen miếng nào đâu mà cũng ngu. Cứ hỏi tới hỏi lui, tại sao họ đối đãi nhau xám ngắt như cái màu lá khô này lại nói là thương nhau. Tình yêu nó chen lọt chỗ nào. Mà rõ ràng đám lá khô này xay ra lại có màu xanh. Màu xanh ở đâu ra. Cái thứ lá kỳ cục quá ta. Phải xây nhừ ra, nát bấy hết mới biết thật ra nó như thế nào…”
Còn nhà văn Nguyễn Thanh, tại buổi tổng kết cuộc thi ký văn học ĐBSCL lần III tại Bến Tre năm 2007 đã viết: “Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước, với trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ, nhiều cây bút sáng tác văn học đã đứng trong cuộc, tham gia vào những công việc lớn của nhân dân, của Đảng. Đáng quan tâm giữa lúc có những chuyển động sâu sắc trong đời sống xã hội, đan xen giữa cái cũ - cái mới, giữa tích cực - tiêu cực, tham nhũng, việc tìm ra những nhân tố mới, tích cực, hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ luôn được đặt ra cho người cầm bút sáng tác văn học. Đáng mừng, trong cuộc thi Ký văn học ĐBSCL lần thứ III, chúng ta được đọc một loạt Bút ký xoay quanh đề tài kể trên: Ẩn danh giữa Đồng Tháp Mười; Người đổi mới; Ông Tổ nghề nuôi tôm; Chuyện một anh hùng; Mắt ghép xanh đời; Gieo cấy thời hội nhập; Mỹ nghệ xứ dừa; Người đàn bà viết tiểu thuyết; Mang lúa lên trời; Vườn Quốc gia Tràm Chim…
Có thể nói, Ẩn danh giữa Đồng Tháp Mười; Người đổi mới là những bút ký khai thác khá sâu sắc những điển hình độc đáo về lòng tốt, về hình tượng con người, chất người, đáng được khích lệ.
Nhận dạng thêm về cuộc Ký văn học ĐBSCL lần này, nếu nói ký là thể loại trải tình, trải lòng trên những trang viết, chúng ta đã bắt gặp khá nhiều tác phẩm khai thác khá sâu sắc về phận người đi cùng những chuyển động lớn của đời sống xã hội. Những tác phẩm Ngả nón trông cầu; Những nén nhang dưới chân cầu; Hoa sen đang mùa; Nhị Hồ đêm quê; Đường về Ân Sư Từ; Chàng Trương Chi trên bến vắng Cà Tum… Và theo tôi, vượt lên về mặt văn chương, thực sự, tác phẩm Nỗi niềm sông có Văn, có Người… Nhìn chung, cuộc thi Ký văn học ĐBSCL lần thứ III, năm 2007- thực sự, văn học phát triển lên chiều cao, có nhiều khả năng sáng tạo văn học. Và với khối lượng lớn tác phẩm văn học đạt hoặc chưa đạt giải thưởng qua cuộc thi , đã đóng góp rất quan trọng vào việc hình thành và phát triển một mảng văn học Nam bộ đáng được ghi nhận. Chính thành tựu đó, hướng tới, sự nghiệp phát triển văn học ở vùng đất cực Nam Tổ quốc, với chúng ta, là niềm hy vọng lớn.”
Với nhà lý luận phê bình Lê Quang Trang, Trưởng ban chung khảo cuộc thi Bút ký ĐBSCL Lần thứ IV, năm 2010 tại Bạc Liêu nhận xét: “ Một điều nổi bật trong những bút ký dự thi lần này còn là cách phân tích sự kiện dưới góc nhìn văn hoá. Có thể đấy đang là điều bức xúc của nhiều vùng đất, mặt trái của phát triển kinh tế tạo ra những tha hoá của đạo đức, huỷ hoại đối với môi trường. Một cây bút bộc lộ “tâm trạng xót xa” khi nhận ra rằng, trong cuộc sống đang chuyển động kia, con người no ấm hơn lên, giàu có hơn so với trước, nhưng sự đoàn kết đùm bọc yêu thương nhau như là “bửu bối dòng họ”, thì lại như có vẻ phôi pha rạn nứt (Bửu bối dòng họ, MS 112). Sóng bủa Cồn Ngao (MS 101) hay Triền sông hoang vắng (MS 111), với bút pháp nhẹ nhàng mà sâu sắc, cũng với chủ đề tương tự. Những thông điệp mang tính cảnh báo về sự tha hoá văn hoá như thế chính là điều đáng sợ và rất đáng suy nghĩ. Nếu không ngăn chặn và điều chỉnh, chúng ta sẽ mất tất cả vì sự tha hoá ấy.
Có điều mừng là những ý tưởng và hiện thực cuộc sống đa dạng ấy được chuyển tải bằng những trang văn khá nhuần nhuyễn và giàu cảm xúc. Cũng cần ghi nhận những cố gắng đổi mới cách thể hiện, nhằm tạo hiệu ứng mới trong tiếp nhận, như các tác phẩm mang mã số 18, 58, 96, 111… Những điều nhắc đến trên đây khiến chúng ta vui, thật sự vui, và tin vào chuyển động mới mà cuộc thi mang lại…”
Xin phụ chú danh sách giải thưởng Ký văn học lần IV năm 2010 - tại Bạc Liêu:
Giải Nhất:
+ Ông “Vua chân đất” của Trần Đắc Hiển Khánh (Sóc Trăng) - 56/60 điểm
Giải Nhì:
+ Người phu lục lộ nhân dân của Trịnh Thị Phương (Trà Vinh) - 53/60 điểm
+ Tình bần ở Cù Lao Dung của Diệp Bần Cò (Sóc Trăng) - 52,5/60 điểm
Giải Ba:
+ Đường sang nước Pháp của Nguyễn Trọng Quế (Đồng Tháp) - 52/60 điểm
+ Những mùa mía đắng của Nguyễn An Cư (Bến Tre) - 51/60 điểm
+ Miền yêu thương của Nguyễn Thị Tuyết Mai (Long An) - 51/60 điểm
Trở lại bài viết hồi nãy còn đoạn kết của Nhà văn Ngô Khắc Tài: “Nguyên nhân của các chứng bệnh là do nghề viết rất khó mà cũng rất dễ nổi tiếng nên người dễ lộ ra cái tâm đen xì xì, lẽ ra không nên cho ai nhìn thấy. Có phải thế Viên Mai mới khái quát “lập thân tối hạ thị văn chương”. Tôi không biết toà soạn có bỏ sót những hạt sạn hoặc là chơi khăm tác giả những bài viết kia để cho dư luận bạn đọc thấy rõ. Đừng tưởng ngày nay sách báo ra nhiều đọc xong rồi quên, vì cũng không người này cũng có người kia thầm lặng tinh ý. Giả dụ như có ai đó đọc rồi âm thầm cắt ra tập hợp in thành một cuốn sách, tôi tin cuốn sách sẽ bán rất chạy. Thú thật khi viết đến đây tôi không biết kết luận như thế nào… “
Và vì vậy, khi nhìn lại văn xuôi ĐBSCL nói riêng và văn chương nói chung sau năm 1975 nhất là ở thời đổi mới, tôi xin kiến nghị:
Một là: Nên chăng các Chi hội Nhà văn VN tại các tỉnh… cũng nên thử làm một cuộc bỏ phiếu thăm dò dư luận chẳng hạn, để tìm ra tác phẩm hay, tiêu biểu nhất (tương đối thôi); qua đó có cơ sở khẳng định về mảng văn chương của chúng ta từng vùng miền, khu vực mà có quan tâm chăm sóc kỷ hơn…?
Hai là: Thông qua đó, tiếp theo sau là Hội Nhà văn Việt Nam nên xúc tiến mạnh mẽ trong lộ trình việc đầu tư tác giả tác phẩm thích đáng (thích đáng theo kinh tế thị trường hiện nay) cho tác giả có triển vọng, như thế (tôi nghĩ) mới có thể có tác phẩm đỉnh cao. Và nhà văn mới có thể xuất bản theo thời hội nhập khu vực, quốc tế được như in song ngữ Việt - Anh, hoặc Việt - Khmer…
TRẦN THẾ VINH
Link nội dung: https://stt.edu.vn/xong-xuoi-hay-song-xuoi-a25074.html