Tác phẩm Hữu Thỉnh bao trùm nhiều thể loại văn học, từ thơ ca đến tiểu thuyết. Dù là thể loại nào, các tác phẩm của ông cũng ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc nhờ trí tuệ và cảm xúc. Ông là một trong các nhà thơ nổi bật nhất trong giai đoạn sau 1975.
Các tác phẩm Hữu Thỉnh trong suốt sự nghiệp
Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh (1942), ông là nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ đổi mới văn học. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, Hữu Thỉnh đã đóng góp rất nhiều tác phẩm hay, từ đó gặt hái được những giải thưởng, bằng khen và huy chương danh giá.

Nếu bạn thắc mắc Hữu Thỉnh là tác giả của bài thơ nào thì dưới đây là tuyển tập những tác phẩm tiêu biểu của ông:
Thơ
- Sang thu (1977)
- Đường tới thành phố (1979)
- Âm vang chiến hào (1976)
- Từ chiến hào đến thành phố (1985)
- Tiếng hát trong rừng (1985)
- Sức bền của đất (2004)
- Thương lượng với thời gian (2005)
- Thơ Hữu Thỉnh (1998)
- Thư mùa đông (1994)
- Trường ca biển (1994)
- Khi bé Hoa ra đời (1994)
- Trăng tân trào (2016)
- Hoang dại dưới trời (2010)
- Ghi chú sau mây (2020)
Văn xuôi
- Đường lửa mùa xuân (1987).
- Mưa xuân trên tháp pháo (2009).
- Lý do của hi vọng (2010).
- Bến văn và những vòng sóng (2020).
Những bài thơ Hữu Thỉnh hay nhất
Không để bạn chờ lâu, sau đây là những bài thơ hay của Hữu Thỉnh:
Sang thu
Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.
Lời bình:
Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh là một tác phẩm nổi bật, khắc họa sự chuyển mình tinh tế của thiên nhiên từ hạ sang thu. Thông qua hình ảnh như hương ổi, sương và gió, nhà thơ đã thể hiện sự cảm nhận nhạy bén về mùa thu đến một cách chậm rãi và nhẹ nhàng.
Sang thu không chỉ là cảm nhận về thời gian chuyển mùa mà còn mang đến những suy ngẫm về cuộc đời, với sự bình yên và tĩnh lặng.
Chợ chim
Bồ quân bên suối chín vàng Biến thành chợ của họ hàng nhà chim Đầu têu tu hú chạy lên Sẻ con giục mẹ bỏ quên cả giày
Chào mào chưa nếm đã say Chim sâu bận mọn nửa ngày mới sang Anh vũ mua bán đàng hoàng Ăn xong múa lượn cả làng cùng xem
Bồ nông ở cữ ăn khem Cà siêng có khách vội đem quà về Con sáo mua bán màu mè Quạ đen đánh quịt còn khoe đủ điều
Chú vẹt ăn bốc nói leo Chèo bẻo đanh đá nói điều chanh chua Chùm chim chùm quả đung đưa Người bán thì một kẻ mua thì mười
Bồ quân được nết được người Bán thì bán đấy chẳng đòi công đâu Chỉ xin cái hạt về sau Nhân ra ngàn quả làm giàu cho chim.

Lời bình:
Bài thơ Chợ chim gợi lên một không gian sống động, nơi âm thanh của những con chim trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, dưới ngòi bút của Hữu Thỉnh, hình ảnh chợ chim không chỉ đơn thuần là buôn bán mà còn chứa đựng thông điệp sâu sắc về sự tự do, khát vọng bay bổng và cả nỗi buồn khi phải xa rời thiên nhiên.
Ông
Ông vác cây tre dài Lưng của ông vẫn thẳng Ông đẩy chiếc cối xay Cối quay như chong chóng
Đường dài và sông rộng Ông vẫn luôn đi về
Tay của ông khỏe ghê Làm được bao nhiêu việc Thế mà khi ông vật Thua cháu liền ba keo.
Lời bình:
Ông là bài thơ mang đậm nét hoài cổ, bày tỏ tình yêu thương, kính trọng đối với người ông trong gia đình. Hữu Thỉnh tái hiện hình ảnh người ông với những đức tính cao đẹp, sự hy sinh thầm lặng và tình cảm gắn bó bền chặt giữa các thế hệ. Qua đó, ông cũng thể hiện sự trân trọng những giá trị gia đình và truyền thống quý báu.
Qua sông
Sông xanh màu vai áo Sóng xao nghìn bước chân Bước sang bờ tiền phương Giọt mồ hôi tạnh hết
Sóng từ đâu tới đâu Lính mình chưa kịp biết Chỉ biết sông như mình Đi suốt đời không mệt.
Lời bình:
Bài thơ khắc họa hình ảnh người lính trên hành trình chiến đấu, với con sông biểu tượng cho những khó khăn, thử thách phải vượt qua. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh dòng nước, bến đò để nói lên khát vọng hòa bình, cũng như sự kiên cường và lòng dũng cảm của những người lính trong cuộc kháng chiến gian khổ.
Sau trận đánh
Khi bản Đông thành một nấm mồ Những hãng phương Tây đưa tin nhớn nhác: - Chưa bao giờ những binh đoàn thiết giáp Của đối phương lại áp đảo như đây
Sau bản Đông giải phóng vài ngày Tôi với chiến sĩ xe tăng cầu Chaki tắm mát Một số anh thì đuổi nhau trên cát Một số anh thì đổ dế, hái hoa Các anh không nói nhiều về chiến thắng những ngày qua
Chỉ mong mưa cho đồng bào gieo lúa.
Lời bình:
Sau trận đánh mang đến không khí tĩnh lặng sau những cuộc chiến đấu khốc liệt. Hữu Thỉnh không chỉ miêu tả khung cảnh chiến trường đổ nát mà còn gửi gắm những suy tư sâu sắc về sự mất mát, hy sinh và nỗi đau của những người còn sống. Bài thơ thể hiện tình cảm bi tráng nhưng cũng rất đỗi nhân văn.
Tắm mưa
Mưa rào rào bong bóng nở đầy sân Trời như bông đen nước tràn qua mặt Sấm làm nhịp cho đôi chân nhảy nhót Kỳ lưng nhau rúc rích đùa vui
Mưa râm ran như bản nhạc không lời Mưa mát lịm thấm sâu vào da thịt Mảnh bom vãi mưa cuốn phăng đi hết Nòng pháo vút cao như một thân măng
Nghiêng mũ sắt đầy đổ nước vào hương Dành riêng pháo trận sau nhân lưới lửa Bõ khi gánh thùng nước lên ba lần đứng thở Góp suất nước chia dấp cho pháo mát nòng
Ơi cơn mưa thành một nỗi chờ mong Hơn cả trang thu mấy mùa chưa trở lại Mưa tạnh hẳn còn tần ngần đứng mãi Mưa như người nhà một lát đến thăm.
Quay nhìn nhau trẻ lại bất ngờ Vương trên mi hạt mưa tròn óng ánh Chẳng ai biết đã qua trăm trận đánh Chỉ thấy như úp cá ở đâu về.
Lời bình:
Tắm mưa là bài thơ gợi lại kỷ niệm tuổi thơ đầy vui tươi và hồn nhiên. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh tắm mưa để tượng trưng cho sự tự do, trong sáng và niềm vui đơn giản trong cuộc sống. Tuy nhiên, đằng sau niềm vui ấy cũng ẩn chứa sự tiếc nuối cho những khoảnh khắc tuổi trẻ đã qua.
Trở lại mùa xuân
Con chim xanh mê trái lựu trước vườn Mùa hạ trôi qua từ ngày chim trốn tiếng Em ở đâu? Cây thưa và bến rộng Rượu nào cho người nhớ, áo nào cho người xa
Bóc hạt sen bùi gặp một tâm sen Tâm sen đắng mình ơi ta vẫn đợi Nếu em về đường sông gió sẽ thôi than thở bến đò Nếu em về đường mây con chim xanh sẽ cùng em trở lại
Cả khu vườn cũng vừa trở lại Kịp làm nên tháng giêng Những mầm cây ríu rít nói về em Em đỏ thắm một mình đi giữa lá
Anh lại đến tìm em qua chiếc dây rất mảnh Sương sớm lo âu gió muộn bồn chồn Sau vết bỏng chiếc hôn đầu ngày ấy Ở cuối vườn có một nụ tầm xuân.
Lời bình:
Trong Trở lại mùa xuân, Hữu Thỉnh miêu tả sự trở lại của mùa xuân với hình ảnh đầy sức sống của thiên nhiên, đồng thời cũng nói lên khát vọng tái sinh, sự đổi mới trong tâm hồn con người. Mùa xuân trong thơ ông không chỉ là mùa của đất trời, mà còn là mùa của hy vọng, của sự bắt đầu lại sau những khó khăn.
Một lần lỡ hẹn
Anh giở bức hình chụp những năm còn trẻ Anh ngó ngơ như một kẻ lạ xa Ai trong đó? Sao mà cười hỉ hả Sao vô tư, sao mập ú vậy à? Hắn khao khát những gì? Ai đang chờ đợi hắn? Chỉ tình yêu là đáng kể thôi chăng?
Hai mươi năm anh khó nhận ra mình Người trong ảnh bây giờ là Tư lệnh Khoảng cách giữa anh và bức ảnh Có bao quãng đường những bà mẹ tiễn con Có lầy lội quãng đường sau rút Huế Có băn khoăn trước hứa hẹn chưa thành Đơn vị sa lầy trong chiến khu A Lưới Bao éo le theo nước lũ xô về Những chiếc xe tăng đòi anh nguyên vẹn Những vết thương đòi anh lành lặn Và anh ý nghĩ lăn qua viên đạn cuối cùng
Giặc đổ quân sau rừng ủi và đốt Cây thở dài trên đất Tàn bay tung “Cán gáo” thõng đôi càng Man rợ xoáy Đóng đinh vào chân tóc Bới rừng lên
Thả xuống lời ngon ngọt - “Hỡi cán binh cộng sản, hãy ra hàng Tổng thống sẽ Tổng thống sẽ Tổng thống sẽ…” Thơm tho và ngọt xớt Đảo nửa vòng lại ngọt xớt thơm tho Rừng quay mặt nghe gió bò trên đá Bò trên rêu ẩm ướt Trên lưng Lời dụ hàng tuôn đầy xuống hố bom Núi dựng ngược ném trả vào mặt giặc Chiếc “cán gáo” đứng im Lại buông lời trơ trẽn - “Đây, xin mời để các anh lựa chọn”
Nó dòng xuống xác một người đồng chí Bị chặt đầu Chân còn dép, chân không
Máu anh bỏng xuống núi ngàn Đời anh treo một dấu than giữa trời Kẻ thù cách một gang thôi Phải dằn súng lại. Cắn môi tìm đường
Thắt trắng một mảnh dù Tư lệnh đạp rừng cho lái xe nhận hướng Hai vết thương vì rừng, ba vết thương vì pháo Trong cái đêm mở đường máu phá kìm Đôi quân hàm nỉ đỏ mới nguyên Vẫn tính vào duyệt binh ở Huế Anh giấu đi không hề nói với ai Nhưng với vợ làm sao giấu được Không phải hai mà mười bốn năm rồi Anh đanh lại, anh nấu nung như thế Lõi lim già mưa nắng lẩn vào trong.
Lời bình:
Một lần lỡ hẹn là bài thơ chứa đựng nỗi buồn man mác về sự lỡ làng trong tình cảm. Hữu Thỉnh khắc họa tâm trạng tiếc nuối, sự đau đáu khi không thể giữ trọn lời hứa, qua đó bộc lộ tình cảm sâu sắc và sự trân trọng đối với những khoảnh khắc đã qua.
Khúc dạo
Tôi là chỗ thất thường của gió Khi người yêu cởi áo trao khăn Tôi là chỗ bước chân đi chậm lại Người thương nhau dù thương chỉ một lần
Tôi là chỗ những ngang tàng chịu khuất Nơi con người thuần hóa các dòng sông Tôi là kẻ thù của những gì chia cắt Tôi đứng đây vì yêu quá con đường
Nhìn thấy bom nhưng không thể xuống hầm Tôi không chạy vì tôi là mặt đất Tôi yêu gió tôi thành người đứng hát Tôi hát rong qua thanh sắt của mình
Bài ca ấy nhiều người đã thuộc Vẫn điệu chèo, điệu lý quê hương Lắm khúc vui nhưng không hóa véo von Có khúc buồn nhưng cuộc đời vốn khỏe
Tôi gọi về những tuổi những tên Như mùa thu gọi heo may rải rác Với thời gian tôi xin làm đá tạc Hỡi mây trời hãy xuống hát cùng tôi.
Lời bình:
Khúc dạo như một bản nhạc mở đầu, khơi gợi những cảm xúc ban sơ và tươi mới. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh âm nhạc để diễn tả sự khởi đầu của một chặng đường mới trong cuộc đời, với sự tươi trẻ và niềm tin vào tương lai.
Tờ lịch cuối cùng
Thành phố đã hiện ra trước mắt các quân đoàn Treo rộn rực bao điều trong ánh điện Nghe sột soạt chút gì như kỷ niệm Qua khu vườn vừa giáp mặt đầu tiên
Xe đang qua những cây số cuối cùng Nối thành phố và con đường mang tên Bác Những nhịp cầu, bùng binh xoáy lốc Cùng trận đánh hiện ra
- Ngã tư, đường Tự do, rẽ trái Chiến sĩ nhẩm trong đêm
Có lẽ sao rất dày và sáng Có lẽ gió rất lộng và thơm ừ có thể Và còn nhiều thứ nữa Tất cả dễ thương và đáng quan tâm Nhưng chúng tôi không hề có thời gian Từng chuẩn bị chúng tôi biết thành phố mình lớn đẹp Từng hy vọng chúng tôi biết thành phố mình chua xót Và chúng tôi chào thành phố của mình “Ngã tư Đường Tự Do Rẽ trái” Chúng tôi nhận và chúng tôi chuyền lại Xúc tích một đề thi Câu trả lời buổi sáng
Câu trả lời chúng tôi mang sẵn Qua rừng sâu ruộng nước trở về đây Có thể đọc qua màu da bộc phá
Qua mùa đông men mét cổ tay gầy Cũng có thể một tiếng Kinh đang vỡ Tư đôi môi của đồng chí Tà Ôi Anh tìm chữ khó khăn như người tiêu tiền mới Bàn tay cầm rìu mộc mạc mở ra Câu trả lời có thể là: thưa má Cho con mượn nhà làm trạm cứu thương Cho con lên tầng thượng đặt trung liên Chỉ cho con ra ngã năm Phú Nhuận Cũng có thể chỉ là im lặng Im lặng không cùng, im lặng của mồ hôi Câu trả lời có thể là cái chết Ngay cả khi đang gõ cửa nhà mình
Gió cứ thổi phập phồng bao tâm sự Đưa chúng tôi tới đích của mùa xuân Nghe hơi nước những dòng sông gần gặn Cứ mơn man trong suốt ríu ran hoài
Xin cám ơn nhạc sĩ Nói giùm cho chúng tôi Cái thao thức trước một tờ lịch cuối Sài Gòn ơi, ta đã về đây!
***
Tôi đã nghe bài hát xốn xang lòng Các cô gái làm đường đi đào củ chụp Hố thì sâu mà tay em gầy guộc Mưa miền Đông ướt áo các em rồi
Bữa ăn trông lên cây Cây xác xơ thuốc độc Bữa ăn đào từ đất Đất lại bỏ hoang Củ chụp thôi đâu phải là trầm Đâu phải ngọc trai mà hiếm hoi lặn lội Rừng cồn gió bụng người mang đói Em vừa đào vừa hát Sài Gòn ơi! Tôi muốn nhắc em còn xa lắm Sài Gòn Còn xa lắm Củ Chi, Bà Điểm Những miệt vườn ở tận cuối dòng sông Nhưng tôi sẽ là người độc ác Nếu nhắc em thì tiếng hát sẽ ngừng Mưa to quá mà niềm vui dễ vỡ Nếu em bồn rừng còn có gì che Thôi cứ để cho em gái hát Đỡ mủi lòng củ chụp nát trên tay Sài Gòn ơi, ta đã về đây Nghe người hát mà thương người quá thể Mưa đã tạnh mấy năm rồi, nhanh nhỉ Vẫn nghe hoài tiếng hát ấm rừng lên Mưa tí tách ở trong tôi từ ấy Cho hôm nay dào dạt với sông Tiền
***
Bởi nơi ta về có mười tám thôn vườn trầu, mỗi vườn trầu có bao nhiêu mùa hạ Chị đợi cờ quay mặt vào đêm Hai mươi năm mong trời chóng tối Hai mươi năm cơm phần để nguội
Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi Chị tôi không trẻ nữa, xóm làng thương ý tứ vẫn kêu cô Xóm làng thương không khoe con trước mặt Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
Vẫn được tiếng là người đứng vậy Nhưng anh tôi vẫn còn Anh tôi che cho ngọn đèn khỏi tắt Hai mươi năm áo gấm đi đêm Chị màu mỡ mà anh tôi chẳng biết
Nhưng chị tôi không thể làm như con rắn que cời Lột cái xác già nua dưới gốc cây cậm quẫy Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cui một mình Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia Súng thon thót ngoài đồn dân vệ Một mình một mâm cơm Ngồi bên nào cũng lệch Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế Và chị buồn như bông điệp xé đôi Bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại Anh đã nghe và cây cỏ cũng nghe Cây thương anh làm vành lá ngụy trang Dù vẫn biết không mát bằng bóng chị Dù vẫn biết không ấm bằng tóc chị Cỏ mùa khô một buổi vẫn tưng bừng Chị thổi ù dằng dặc suốt đời anh Chiếc khăn tay muốn làm buồm náo nức Chiếc khăn tay của một thời nước mắt Sẽ tung cờ hạnh phúc trước hàng hiên
Nhưng đêm nay chị vẫn còn buồn Nhẫn vẫn lỏng ngón tay khô héo Chị ơi Bằng khắc khoải hai mươi năm đời chị Chị hình dung những bước của anh về Đêm dày thế chắc tiếng gà phải khỏe Anh lẽ nào vẫn chiếc gậy tầm vông? Em lẽ nào chỉ là một dòng sông Phải cay đắng quay dòng trước chiếc cầu Bình Lợi? Không thể rút về rừng đại đội một hàng ngang Đứng lọt thỏm giữa bao nhiêu thương xót Không thể nhìn đống súng thừa như nhìn thừa đũa bát Thừa đến nỗi những người còn lại Không dám nhận mình là may Hồi Mậu Thân toan tính biết bao điều Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều Hoa mai nở hai lần hoa có hậu Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu Vẫn tin có ngày hái quả cho anh
Bao giờ lúa trổ đòng đòng Lúa đang trổ Anh đang về đấy chị Vuông vải đêm nay là tiếng chim khách đỏ Anh sẽ nhận ra sao sáng của riêng mình Anh ở đâu đêm chờ đợi cuối cùng?
Đêm quả thị Và sáng mai cô Tấm
***
Chiến dịch này ăn cơm không phải độn Mừng thì mừng mà thương mẹ bao nhiêu Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng Đêm còn lạnhở ngoài ta đấy bạn Ngoài ta độ này đang giáp hạt Cây rơm gầy xay giã cũng thưa đi.
Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng Một nửa nhân dân ngày mai ta nhận mặt Nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng Lại vằng vặc những bến bờ thương nhớ
Ngài mai chúng mình tiến vào thành phố Đêm nay mẹ lại nhắc chúng mình đây
Mẹ cả nghĩ và bố thường ít nói Lúa đồng mình mỏi mắt vẫn chưa hoe Ngày mai bố dậy sớm ra tàu
Tàu vẫn chậm và đông người chạy bữa Bóng bố khất sau nhà ga Chí Chủ Sắn độ này lên giá quẩy tòng teo Năm thì ngắn mà tháng ba dài thế Nhìn trong nhà rộng rãi đến là lo
Ngày mai chúng mình tiến vào thành phố Chẳng có cách chi báo tin cho mẹ Mẹ đỡ lo, thấp thỏm đôi bề Ba đứa con có mặt trong này Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc Chiến tranh bao giờ chấm dứt Nếu một đứa con của mẹ không về Mẹ ít ngủ mẹ thường thức khuya Đêm nào cũng dài Căn nhà có mười mấy mét vuông Làm lụng đến già còn bao nhiêu tất bật Sáng úp mặt ngoài đồng Chiều còng lưng cuốc đất Qua tết lại bắt đầu cơm sắn cơm khoai Từ chịu đựng và neo đơn của mẹ Bao việc làng việc nước lớn dần ra
Nếu mẹ biết chỉ còn đêm nay Đêm nay nữa là con vào thành phố Mẹ sẽ khóc Rồi mẹ đi nhóm lửa Tưởng sáng ra là con đã có nhà
Và em nữa, em chưa đi ngủ Đom đóm bay ngoài ngõ vơi đầy Tháng ba đi trong vườn quả dông dài Bước thật chậm theo màu chỉ nắn nót Em tô đỏ dần các tỉnh miền Nam Những mắt na đang chín Đường số Một chạy thi với biển Biển mệt nhoài nằm thở ở Nha Trang Núi chồn chân trên đỉnh Chứa Chan Núi nhường bước cho đường vào thành phố
Anh đang ở bên này thành phố Cách một mệnh lệnh Cách một trận đánh Cách một cây cầu, cách một đêm nay Đèn thành phố hắt lên áo anh Soi rất rõ từng chiếc khuy sứt mẻ Thành phố càng gần Càng không dám nghĩ nhiều đến mẹ Phải cố quên mẹ ngồi đứng không yên Dù chỉ có anh và ngọn cỏ lúc này.
***
Có run rẩy một lá buồn nhỏ xíu Không chở che Gió đẩy đến gần anh Sau trận bom Lại bắt gặp cái nhìn Ngây dại thế Và trong sạch thế Của bình yên Có thể quá đơn sơ Như là cỏ Cuối cùng không bị nát ấy là chỗ mà đất còn giữ được Cho mọi tiếng ồn trận đánh khỏi bay đi ấy là điều mà anh cố nói ra Không nói được Bỗng nhìn lên thấy cỏ Cỏ thật gần Chiến tranh đang chấm dứt Qua đêm nay Cỏ thành chiếc kèn môi Những ô cửa đầu tiên của thành phố kia rồi Nếu sáng ra mà anh nhìn thấy cỏ Tức là anh được thấy em với người yêu Anh chỉ thở mà không cần phải nói
***
Em cứ tô đậm nữa đi em Tô thật đậm để hiện ra đất nước Sớm mai em bổ con lợn đất Bao niềm vui sẽ tóa dưới chân
Em sẽ hiểu đất nước mình dành dụm Hiểu vì sao ta bớt giấy in thơ Để in phiếu đường, phiếu thịt Hiểu vì sao những thợ cày giỏi nhất Đang khoét chiến hào bằng một chiếc xẻng con Chiếc xẻng đã mòn Vẫn đắp cao đôi bờ công sự Đắp hối hả trong đêm châu thổ Đó là con đường đất nước đi qua Để trở về cây lúa Sớm mai đất nước vào thành phố Đêm nay xe pháo vẫn sang phà Với đôi dép tân binh Đất nước sẵn sàng giẫm lên nhiều thử thách Các chiến sĩ lái xe dốc bi-đông chè đặc Đất nước sẵn sàng thức trắng nhiều đêm Dù kẻ thù từng đàn đang tháo chạy Chúng gọi nhau táo tác trên trời 13 nóc nhà cao 13 bến tát Nước Mỹ tát hoài ô nhục vẫn không vơi
Em cứ tô đậm nữa đi em Tô thật đậm để hiện ra đất nước
Hiện ra ngày chúng ta hằng mong Đất nước theo em ra ngõ một mình Cau vườn rụng một tầu đã cũ Đất nước đêm nay 50 triệu người không ngủ Đang bóc đi tờ lịch cuối cùng.
Lời bình:
Tờ lịch cuối cùng là một bài thơ chứa đựng những suy tư sâu sắc về thời gian và cuộc đời. Tờ lịch cuối cùng rơi xuống không chỉ là biểu tượng cho sự kết thúc của một năm, mà còn là lời nhắc nhở về sự hữu hạn của đời người. Qua đó, Hữu Thỉnh thể hiện triết lý về sự trân trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống.
Tự do
Có cách chi giữ nguyên được ngày này Khi chúng ta chẳng còn trong đội ngũ Con ngựa già trí nhớ Đánh rơi bao kỷ niệm dọc đường
Nắng chẳng giữ cho ta, mây chẳng giữ cho ta Như bây giờ đang mây đang nắng Đi tìm những người lính Nhưng họ đã già rồi Và chính ta, ta cũng già đi Ngày 30 tháng 4 thành tên gọi con đường Lũ con cháu đi lại hồi hộp bên nhau Cùng với chúng ngày hôm nay trẻ mãi
***
Năm cánh quân từ năm hướng trở về Thành phố đầy áo trận ở cuối đường một vành lá vút qua Chỉ chờ thế là người xô như sóng Người ta bỏ các máy điều hòa Xuống đường Chen với nắng Những mặt người như cờ đỏ mới may Cả thành phố biến thành trẻ nhỏ Bóng bay lên làm thấp những hàng cây Cứ lơ lửng cứ vẩn vơ thật lạ Vừa là mình vừa là ai Không kịp nghĩ điều gì rành mạch Bước chân đan chộn rộn với người Quàng thương nhớ của phố phường lên tháp pháo Tháp pháo để trần lăm chăm vết đạn Dằng dặc đường về Mòn xích sắt vẫn quay nồng mùi đất Mặt đường hăng mùi cỏ ngoại ô Đồng chí trưởng xe Mình quấn đầy băng trắng Anh giơ tay cả thành phố động lòng Những bó củi công kềnh Những bao gạo vàng khè bụi bám Các anh đã tới nơi Vẫn sẵn sàng đi tới Tên giặc nào cựa quậy phía sau lưng? Kính ôtô giập vỡ vết chân chim Mui xe bạc những hiểm nghèo chồng chất
Xạ thủ trung liên Quần áo màu rừng ngả sang màu đất Đôi dép râu dẫn trước đội hình Hoa nhiều quá nhưng anh không kịp nhận Ngõ ngách nào súng vẫn nổ vào anh Các anh về Làm một cơn giông lớn Sáng lên gương mặt phố phường Theo các anh rừng núi trở về Các anh về như núi Những người yêu của những người yêu Niềm trông đợi của những niềm trông đợi Những nụ cười dưới vành mũ sáng trưng Thành phố hả hê đung đưa bồng bột Những con đường ôm chầm lấy các anh Cùng một lúc ôm bao miền đất nước Ôi nước mắt! Tự bao giờ, nước mắt Kể bao điều mừng tủi với đoàn quân.
Những góc phố đã trơ mòn, nhạt thếch Đã lên rêu đã lẵp lại mình Thoi thóp Bấp bênh Lạnh lùng Méo mó Đồng tiền rách trên tay người hành khất Giày dép kiêu kỳ con cậu con cô Chúng nó đi qua phập phì nước bọt Thành phố căng ra Gào thét Bác đàn cò lọ mọ lên đây Làm đêm về uống nước suông đi ngủ Người ta sợ ban đêm như sợ đồng tiền giả Và hoàng hôn là ban mai của cô gái bán mình Những mái tôn the le hoán hết mặt sông Đời vật vờ trôi nổi Những nén nhang, những mâm bông mâm trái Những bàn tay khấn vái Nước lã đổ đi, nước lã lại đem thờ Ngày mai vẫn xa lơ xa lắc Mòn tay lần tràng hạt Tràng hạt vẫn không cùng Đô - la đỏ và đô - la xanh Tờ nhật trình và những tên chửi đổng Hai con hổ nhồi rơm và chiếc ngai tổng thống Và chính tên tổng - thống - cổ - phần Rơi xuống Cùng những thằng buôn nạng gỗ phế binh Những thằng đặt máy nghe trộm Quan và lính Thét lác và dạ vâng Tụt tất cả dưới đôi càng máy bay lên thẳng Lá cờ 50 ngôi sao Cuộn thành một tổ sâu Nước Mỹ ra đi với một khuôn mặt héo Các anh về Những lá cờ cháy sém Chúng tôi nhận ra khói đạn dọc đường 50 triệu đứa con Thương mẹ vừa sinh hạ Sao hôm nay dễ khóc dễ cười Không phải mặt trời Chính lá cờ cho thành phố chói chang Trong veo và thở phập phồng soi khắp Những cuộc đời ở bên kia mặt lá Rưng rưng bước lên cầu thang Cửa sổ mở ra bốn bề hy vọng
Lại hiện về bước chân em Đuốc sống Chạy như bay để kịp sáng hết mình Những linh hồn từ ngọn lửa tự thiêu Âm ỉ từng hàng gạch lát Những dòng người tìm về dân tộc Câu ca dao và gạch đá cùng đi Lịch sử chép trong đề lao cấm cố Máu sinh viên bầm tím từng dòng Các chiến sĩ biệt động thành Các cô chiêu đãi viên Kéo cái chết đến đầu giường của giặc Ma-giét-tích, Prê-di-dăng Nghe tiếng nổ má châm đèn với bánh Tiếng thì thầm sau cửa liếp Và em Em bị bắt sau tiếng giày thúc cửa Tất cả đã trở về Từ cầu chữ Y Trường đua Phú Thọ Tổng kho Nhà Bè Cho chúng tôi hình ráng ra Đất nước
Cờ bay lộng trên nóc dinh Độc Lập Những cánh quân sum họp những chân trời
Tháng Tư nay cây cỏ cũng ra tù Mùa hạ đón bằng cơn mưa nồng nhiệt Mưa vỡ ra trên vòm cây thảng thốt Mưa ngọt ngào nhà cao thấp rưng rưng Hơn nước mờ bay không để dấu trên đường Tôi bị lắc giữa hai chiều hư và thực Trời ngây ngất tôi của trời một ít Phố chật người tôi bước với người đây.
Tôi ngẩn ngơ cuối gió những hàng cây Tôi xô cửa cùng sức đè xích sắt Có ánh mắt không làm sao đi dứt Người ơi người như cốc rượu đầu tiên
Nếu anh còn Giờ này anh ở đâu Anh Trỗi? Đeo quanh anh không phải những vòng hoa Không nguyệt quế, không cầu vồng huyền hoặc Đeo quanh anh là những vòng người Có người trẻ, có người già Họ tự do hoan hỉ cùng anh Cứ hồn nhiên giật áo kiềng chân Đường đã sạch những vòi rồng xối nước Họ hỏi anh mà không đợi trả lời Anh cứ thế mà miên man Họ kéo đến đông thêm Anh cứ thế mà đầy ắp Hình như chị xếp thùng chiều nào quanh vòi nước Hình như anh lưng gò xuống máy khâj Anh tìm họ nhưng anh không lên bục Cứ cảm thông chia sẻ giữa nền đường Nếu anh con Việc đầu tiên Anh lồng đi phá cửa các nhà tù Vai anh đỡ những người ốm lả Họ không còn sức để cười để khóc Toàn thân họ đã biến thành nước mắt Trên vai anh nóng bỏng Tự Do
Con đã từng khóc Bác ở trong rừng Phải dựa vào cây trong đêm truy điệu Chiếc Orionton giàn giụa nước mưa Bài điếu văn nghe khi rành khi mất Trong buồng lái xe tăng nhỏ hẹp Chúng con nâng niu tấm ảnh của Người Giấc ngủ bữa ăn hành quân đuổi giặc Không lúc nào chúng con vắng Bác
Con đã về nơi Bác ra đi Đường lắm dốc hôm nay con mới tới Chúng con về như Bác vẫn từng mong Đất nước liền một dải
Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc Tất cả dưới bàn tay của Bác Hóa thiêng liêng máu thịt tự hào Chúng con thèm nghe Bác nói một câu Giữa bến Nhà Rồng mênh mông trời nước Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp Để vui hết những gì ta có được hôm nay
Hạnh phúc nhân dân - mơ ước tột cùng Người cao cả tận ngọn nguồn thương nước Sông trôi mãi nhưng bờ còn giữ được ánh mắt Người sâu vợi suốt thời gian Đang tỏa khắp đang ân cần căn dặn “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta Thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi” Tên giặc cũ chuồn rồi, lại những tên giặc mới Chúng con nghe nóng bỏng lời Người.

Lời bình:
Trong Tự do, Hữu Thỉnh khắc họa khát vọng lớn lao của con người về sự tự do, không chỉ trong không gian vật lý mà còn là sự tự do trong tâm hồn. Ông sử dụng hình ảnh cánh chim bay, gió lộng để tượng trưng cho khát vọng vươn tới những chân trời mới, thoát khỏi những ràng buộc, gò bó của cuộc sống.
Hồi âm
Tôi muốn tan vào cơm mưa Sài Gòn đường đột Làm giọt nước đầu mùa Tôi cùng mùa hạ dắt nhau đi Mang thơm nức những triền sông cây quả Đến những đảo xa Những quả trứng giập giờn giữa sóng Những nhớ thương không ở ngoài tầm Đất nước Chính ở đây tôi nghe rõ tiếng gọi đời mình Giữa bao nhiêu ồn ào của biển Tôi thấy rõ nhân dân xanh lẫn vào cây chàm cây đước
Nhân dân tự do Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ Ghì lấy từng con tôm con tép Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn Cũng tìm về cuối đất Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau
Nhân dân chia mình ra các đảo Làm vệ tinh Yên dạ những con tàu Nhân dân có tên là Bình, là Nghĩa, là Tỏ, là Thu Là xạ thủ trung liên Là báo vụ viên Là Phấn khí tài, là quỳnh quản lý Đã tới đảo bằng mũi tàu truy quét Dựng lên đảo pháo đài mắt thức Yêu đảo bằng cánh tay dài rộng đất liền
Tôi đang đi trên đảo chẳng bình yên Nghe rõ lắm lời tuyên ngôn của cát Ném tơi bời trên da thịt nóng rang Biển lại hát bài hát cũ Biển luôn luôn muốn chứng tỏ mình Khao khát Sóng nồng nã không có gì ngăn được Sóng mênh mông thử sức con người Ngày ở đảo dài Mặt trời lên từ sóng và chìm dần vào sóng Trời bao giờ cũng muốn đỡ biển lên Mặt trời tôi vào biển Tình yêu cường tráng và dai dẳng Hôm nay và hôm qua ở đây và nơi khác Chẳng sợ nhàm Mặt trời cháy với một niềm mong mỏi Mỗi hạt cát hành tinh cũng phát sáng như mình
Em ơi em, em là biển của đời anh Là vụng kín Là bến bờ nương tựa Em làm anh bận rộn ngày ngày Em làm anh nóng nực ngày ngày Anh chìa ca nhận phần nước hiếm hoi Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ Em làm anh tơ non Em làm anh mạnh mẽ Cứ vẫy vũng như đảo của ta Biển nguội dần vỗ tím vào đêm Những cánh chim Khép chiếc ô râm mát Những chiếc ô biến thành lời ru Nựng nhau quanh nhà bạt Đó là lúc đảo cất lên tiếng hát Những bàn chân sánh ướt lân tinh Đảo độc thoại dưới trời sao rộng rãi Sóng mang đi âu yếu đất liền
Và anh Anh biến thành một tấm áo choàng Che đồng đội những cơn mưa xích đạo.
Lời bình:
Bài thơ Hồi âm là một lời nhắn gửi, một lời hồi đáp đối với những ký ức, những tình cảm đã qua. Hữu Thỉnh sử dụng lời thơ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, để diễn tả cảm giác mong chờ và hy vọng được hồi đáp từ quá khứ, từ những người đã từng gắn bó.
Ấm lạnh
Đêm nay là cái đêm gì nhỉ Rét biến thành dây để trói tôi Em kề bên hoa trước mặt Ngày mai thương nhớ đã qua trời.
Lời bình:
Ấm lạnh thể hiện sự thay đổi của cuộc sống qua những biến thiên của thiên nhiên và con người. Hữu Thỉnh khéo léo lồng ghép hình ảnh của mùa đông và mùa hè, để nói lên sự đa dạng và phức tạp của cảm xúc con người, từ sự lạnh lùng đến sự ấm áp, từ cô đơn đến niềm hạnh phúc.
Lời sóng
Những người lính ra đảo Có dòng sông đồng hành
Năm dài và đất rộng Vui buồn sau chiến tranh
Có người lính xây thành Lẫn vào lau biên ải
Có bao người con gái Đến thăm nàng Vọng Phu…
Lời bình:
Bài thơ Lời sóng thể hiện sự giao tiếp của con người với thiên nhiên, thông qua hình ảnh của sóng biển. Hữu Thỉnh mượn lời sóng để diễn tả những nỗi niềm, những khát khao trong lòng người, khi đối diện với cuộc sống bao la, đầy biến động.
Bình yên
Ngõ ôm chèo theo sông Lại ngược lên với suối Bắt đầu là bóng núi Vô cùng như mắt em
Gió níu gió lặng im Thế là trời để ngỏ Cho ta đến với mình Trong thầm thì tiếng cỏ
Anh muốn bế cả chiều Hôn lên ngày gặp mặt Tình đầy trăng vẫn khuyết Em xanh ngày đang xanh
Những chùm quả bình yên Rời xuống triền núi vắng Trời muốn nói câu gì Ngó ta Rồi im lặng!….
Lời bình:
Bình yên là bài thơ mang đậm chất triết lý, khắc họa niềm khao khát của con người về sự tĩnh lặng và an nhiên. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh thiên nhiên để miêu tả trạng thái bình yên, nơi con người có thể tìm về sau những ồn ào, xô bồ của cuộc sống.
Thơ viết ở biển
Anh xa em Trăng cũng lẻ Mặt trời cũng lẻ Biển vẫn cậy mình dài rộng thế Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến Vì sóng đã làm anh Nghiêng ngả Vì em…
Lời bình:
Thơ viết ở biển chứa đựng những cảm xúc mãnh liệt khi đối diện với thiên nhiên bao la của biển cả. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh biển để thể hiện sự dạt dào của cảm xúc, những suy tư sâu sắc về cuộc đời, cũng như sự trăn trở về những mối quan hệ giữa con người với nhau.
Em còn nhớ chăng
Ai đưa đò tình Dạt vào bến lở Còn lại mình anh Gom từng mảnh vỡ
Tháo cả mái trời Che không đủ ấm Đội nghìn cơn mưa Không nhòe kỷ niệm
Như cây tìm lá Như cá tìm vây Anh gọi khản lời Chiều dang dở gió
Mở trăng ra tìm Trăng còn in bóng Mở cỏ ra xem Cỏ còn hơi ấm
Hoa vẫn ngày nào Không an ủi được Tình bao nhiêu bậc Em còn nhớ chăng.
Lời bình:
Em còn nhớ chăng là bài thơ chứa đầy nỗi nhớ và sự tiếc nuối về một mối tình đã qua. Hữu Thỉnh sử dụng câu hỏi để khơi gợi cảm xúc, nhắc lại những kỷ niệm đẹp giữa hai người, nhưng cũng không giấu được sự đau đáu về thời gian trôi qua và những gì đã mất.
Sức bền của đất
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ Mẹ ở nhà đã cất áo bông Mẹ có ra bờ sông Qua bến đò tiễn con dạo trước Đường xuống bến có mười sáu bậc Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu…
Trận địa của con nối tới bến sông Có cái khát của nhiều trận đánh Có niềm vui trước mỗi cơn mưa Khum bàn tay vốc đom đóm bay ra Kỷ niệm lập loè những đêm bám chốt Kẻ thù trước mặt A.R.15 xả đạn liên hồi Cối cá nhân kêu dóng một Pháo tầm xa cố tình thay quy luật B.52 hay nhè trước mỗi bữa ăn Cây cối thưa dần Màu nguỵ trang cuối cùng là màu của đất. Và mẹ là người chúng con thương nhớ nhất Đất nước ngày có giặc Mẹ vẫn đỏ miếng trầu Ấm một vùng tin cậy phía sau.
Sóng đánh cao trên mặt nước Sa Thầy Pháo giặc hầm hầm Đắc Siêng, Đắc Mót Đường Mười Tám như dây bị đứt Rơi rụng hai bên những ung nhọt quân thù
Chúng con ở đây hai mươi tám ngày qua Vừa im lặng vừa ồn ào trên chốt Phơi chiếc khăn sương sớm mai rửa mặt Ngủ nhát gừng giữa hai đợt tấn công Tay thêm chai mỗi bận moi hầm Ném cho nhau những khẩu phần khô khốc Mười sáu bận quân thù bắn truyền đơn xin nhặt xác Mặt chúng nó rung lên những chữ nghĩa đen xì… Mây trôi trước mặt Đắc- Bờ- Si Ai đốt rẫy cỏ thơm như mía nướng Đất chiến hào như một người hay chuyện Ta chưa một lần được thư thả đất ơi Ta chưa một lần nói được nên lời Lòng của ta với mẹ! Xanh xao nước trời mùa khô rất trẻ Hầm hập quanh người đất đổ mồ hôi
Đưa mắt cho nhau trò chuyện không lời Đồng đội của ta Người giữ A.K, người ghìm B.41 Đồng đội hay cười qua hàm răng cắn chặt Nụ cười mát lành như mấy trắng bay qua
Ta đi từ đầu sông Lô đến cuối sông Thương Từ thung lũng Sa Thầy ra sông Trường trắng cát Đất vẫn đất của dân ca và mía mật Gió thổi rừng lồ ô xao xuyến biết bao nhiêu
Vẫn chiếc cối xay cười ra hạt trắng tinh Vẫn cây chuối cuối vườn hay ngẫm nghĩ Con dao băm bèo, cái xa cuốn chỉ Phấp phới buồm nâu chiều mỏng tang Đất bận quanh năm điệp khúc mùa màng Chị búi tóc cao hơn, chịu thương chịu khó Mẹ vẫn đong bữa ăn bằng chiếc lon nho nhỏ Quá nữa những cánh đồng dành cho đứa con xa Sức lực nào từ mạch đất ông cha Chuyền đến tận chiến hào hăm hở thế Ánh sáng nào từ mênh mông lòng mẹ Soi cho ta qua khe ngắm đầu ruồi Ta lớn lên kịp đến chiến trường này Để đối địch với quân thù đang quẫy cựa Này đồng đội, này nhân dân, bè bạn nữa Mẹ ở nhà cứ yên tâm về con
Kẻ thù lẩn nhanh hơn, thụt đầu trong vỏ cứng Lấy pháo và bom để xua cơn hốt hoảng Tung truyền đơn trắng dã âm mưu Dây thép gai cuốn dài bao nhiêu Đối với chúng ta lại còn quá trống
Kẻ thù hô hào gia tăng quần áo mỏng Lại rất thích dày vỏ thép chiến xa Phòng thủ bê tông, bao cát, mìn chờ Chưa yên dạ, tiêm thêm liều kích thích… Kẻ thù không ưng ta gọi anh em Đừng chú bác ông bà gì ráo Muốn phá vỡ những giọt quê hương lặn sâu trong máu Chúng nhổ làng đi, dồn vô “ấp dân sinh”
Kẻ thù làm cho ta thương nhớ nhiều hơn, sôi sục gấp trăm lần Con gái con trai nhớ nhau qua bãi bom toạ độ Màu mạ xanh thành màu che chở Hang đá không đèn nuôi trí tạo thời cơ
Ta hoãn cưới một năm rổi lại hai năm Đi đánh giặc chân trời in màu thiếp Có miếng cao nai không sao gửi được Mẹ ta đã ngoài sáu mươi Nguyên nỗi nhớ thương này Đủ nuôi lớn cho ta thành dũng sĩ
Xin cảm ơn những khu rừng thiên Tán lá rợp cho ta trầm tĩnh lại Chông tẩm thuốc sau nhà, đá mài dao dưới suối Con đường mòn nung đỏ dưới ngàn cây Một cọng rau gợi nhớ về xuôi Củ chuối chát ghi mối thù canh cánh Đêm bên suối sao trời rơi óng ánh Nhắc ta hoài biển đang vỡ dưới kia Con đường tấy lên như một lời thề Đất gọi ta, làng gọi ta, nóng bỏng Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên
Những đứa con quen ném bã trầu lấy cớ để yêu nhau Giờ biết xả trung liên và quăng U.S Cưa ống bom đi làm ca làm bát Ngâm giá làm dưa trong thùng đạn bốn mươi li Giàn mướp nguỵ trang lúc lắc xe đi
Lúc nghỉ ngơi chui vào cua-mang- cá Diệt cứ điểm bắt đầu bằng bóc vỏ Phục kích bất ngờ bắn giặt xóc xâu Đánh bộc phá theo đội hình cuốn chiếu Đột kích xe tăng đạp rắn trúng đầu…
Kim nhể gai kim càng phải nhọn Mẹ dạy con như thế tự bao giờ Xa mẹ chúng con vỡ nhẽ trăm điều Ăn trông nồi là nhường nhịn anh em Ngồi trông hướng là biết thù bóng tối Chúng con làm ra những bài hát mới Chiếc võng, con cua… ngôn ngữ của ông bà
Biết đào hào chữ Z, khoét hầm chữ A Vách nứa hoa chanh cửa xoè nan quạt Sợi dây rừng cũng làm nên bền chặt Tiếng gọi gà rất cổ mỗi chiều hôm
Gió trẻ trung rung động những khu rừng Chúng con hát trong giọng trầm đại đội Đắp nắm đất cho người ở lại Trận đánh hiểm nghèo: tất cả giơ tay!
Quần áo màu rừng, đôi mắt màu mây Trái tim thả diều về thăm mẹ Nỗi nhớ người yêu thêm vào đêm chuẩn bị Lại những rừng châm, lại những đồi lau…
Chiến dịch mở ra thời vụ bắt đầu Mang cái rét giêng hai đi bám giặc Mang chất thép định hình trên bàn cát Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa Ta chao chân trên những mảnh bờ Lặng lẽ nhận sức bền của đất Đạp cứ điểm Lần theo từng dấu dép Ta nhận ra màu bùn qua những cánh đồng chiêm.

Lời bình
Bài thơ Sức bền của đất thể hiện lòng biết ơn và ngưỡng mộ đối với sự kiên cường, mạnh mẽ của đất đai, thiên nhiên. Hữu Thỉnh so sánh sức chịu đựng của đất với con người, từ đó khơi dậy niềm tin vào sự bền bỉ và sức sống mãnh liệt của con người trong cuộc đời.
Hỏi
Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào? - Chúng tôi tôn cao nhau
Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào? - Chúng tôi làm đầy nhau
Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào? - Chúng tôi đan vào nhau Làm nên những chân trời
Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào?
Lời bình:
Hỏi là một bài thơ mang tính triết lý, khi Hữu Thỉnh đặt ra những câu hỏi về cuộc sống, về tình yêu, về con người và những giá trị của họ. Bằng cách đặt ra câu hỏi, ông không chỉ bày tỏ sự băn khoăn, mà còn thôi thúc người đọc suy ngẫm về những điều đang diễn ra xung quanh.
Chiều sông Thương
Đi suốt cả ngày thu vẫn chưa về tới ngõ dùng dằng hoa quan họ nở tím bên sông Thương
nước vẫn nước đôi dòng chiều vẫn chiều lưỡi hái những gì sông muốn nói cánh buồm đang hát lên
đám mây trên Việt Yên rủ bóng về Bố Hạ lúa cúi mình giấu quả ruộng bời con gió xanh
nước màu đang chảy ngoan giữa lòng mương máng nổi mạ đã thò lá mới trên lớp bùn sếnh sang
cho sắc mặt mùa màng đất quê mình thịnh vượng những gì ta gửi gắm sắp vàng hoe bốn bên
hạt phù sa rất quen sao mà như cổ tích mấy cô coi máy nước mắt dài như dao cau
ôi con sông màu nâu ôi con sông màu biếc dâng cho mùa sắp gặt bồi cho mùa phôi phai
nắng thu đang trải đầy đã trăng non múi bưởi bên cầu con nghé đợi cả chiều thu sang sông.
Lời bình:
Chiều sông Thương khắc họa khung cảnh chiều tà yên bình trên dòng sông Thương, nơi mang đến cảm giác yên ả nhưng cũng chứa đựng nhiều cảm xúc trầm lắng. Hữu Thỉnh dùng hình ảnh con sông để nói về sự trôi đi của thời gian, những kỷ niệm và nỗi nhớ.
Trên một chiếc xe tăng
Năm anh em trên một chiếc xe tăng, Như năm bông hoa nở cùng một cội, Như năm ngón tay trên một bàn tay, Đã xung trận cả năm người như một.
Vào lính xe tăng anh trước anh sau, Nết ăn ở người thì lạnh, nóng, Khi đã hát hòa cùng một giọng, Một người đau tất cả quên ăn.
Năm anh em mỗi đứa một quê, Đã lên xe là cùng một hướng, Đã lên xe là chung khổ sướng, Trước quân thù nhất loạt xông lên.
Năm anh em mang năm cái tên, Đã lên xe không còn tên riêng nữa, Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa, Năm quả tim một nhịp đập dồn.
Một con đường đất đỏ như son, Một màu rừng xanh bạt ngàn hy vọng, Một ý chí bay ra đầu ngọn súng, Một niềm tin nghiến nát mọi quân thù
Lời bình:
Bài thơ Trên một chiếc xe tăng khắc họa hình ảnh người lính trên chiếc xe tăng giữa chiến trường khốc liệt. Hữu Thỉnh miêu tả cuộc sống trong chiến tranh, nơi chiếc xe tăng không chỉ là phương tiện chiến đấu mà còn là “ngôi nhà di động” của người lính, nơi họ phải đối mặt với gian khó, hy sinh. Qua hình ảnh mạnh mẽ này, tác giả tôn vinh lòng dũng cảm và ý chí kiên cường của những người lính.
Để lại cho em
Chị lên tám tuổi Để lại cho em Dép đỏ, mũ len Xinh xinh đôi tất.
Áo chị, mẹ mua Bây giờ em mặc Hai bên hàng cúc Có đôi thỏ đùa.
Những ngày chị qua Bây giờ em tới Cơn ho, cơn sốt Những ngày lên năm.
Để lại cái ngoan Trên tay sạch sẽ Quàng qua cổ mẹ Thơm thơm thơm thơm…
Em học ngày ngày Cái ngoan của chị Những ngày chị bé Như em bây giờ.
Lời bình:
Để lại cho em là một bài thơ chứa đầy tình cảm và trách nhiệm, như một lời nhắn nhủ từ một người lính hoặc một người cha để lại cho người thân yêu. Hữu Thỉnh đã khéo léo bày tỏ niềm trăn trở về tương lai, về những giá trị tinh thần mà người đi trước truyền lại cho thế hệ sau, với mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho những người mình yêu thương.
Ngôi nhà của mẹ
Chiếc vé tàu cũng hồi hộp như con khi con về với mẹ
con lại ngồi vào chiếc chõng tre xưa nơi mẹ vẫn ngồi khâu cha thường chẻ lạt bao xa cách lấp bằng trong chốc lát trăm cánh rừng về dưới giọt ranh thưa
xin mẹ lại cho con bắt đầu đi gánh nước gánh bao nhiêu trong mát để dành xin mẹ lại cho con nấu bữa cơm mà không cần giấu khói
để con được cảm ơn ngọn lửa nhà ta ngọn lửa biết thay con tìm lời an ủi mẹ
vẫn chiếc dây phơi buộc ở đuôi kèo vẫn ở đó giờ cao hơn với mẹ con phơi áo nghe hai đầu dây kể thương quá những khi mưa con trai mẹ vắng nhà
chiến tranh đi qua mẹ con mình hàng gạch lún giữa sân cơn mưa còn đọng nước hôm nay con trở về nhà chiếc vó nhện trên tường cũ vô cùng thân thuộc
với một người từng chịu nỗi cách xa họ chỉ cần đi ngược con đường đã làm nên xa cách là có thể về với mẹ được ngay nhưng với một người lính như con muốn gặp mẹ phải vượt lên phía trước phải lách qua từng bước hiểm nghèo ở trên đó bất ngờ con gặp mẹ như con đang gặp mẹ bây giờ
bước chân con chưa kín mảnh sân nhà phía biên giới lại những ngày súng nổ ngôi nhà mẹ là chiếc ga bé nhỏ chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình.
Lời bình:
Bài thơ Ngôi nhà của mẹ đầy ấm áp và thiêng liêng, nơi hình ảnh ngôi nhà không chỉ là nơi che chở mà còn là biểu tượng của tình mẫu tử. Hữu Thỉnh sử dụng hình ảnh quen thuộc của ngôi nhà, mái tranh, vườn cây để gợi lại những kỷ niệm về mẹ, thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn sâu sắc đối với người mẹ và tình yêu gia đình thiêng liêng.
Bầu trời trên giàn mướp
Thu ơi thu ta biết nói thế nào sương mỏng thế ai mà bình tĩnh được hứa hẹn bao nhiêu bầu trời trên giàn mướp lúc hoa vàng thu mới chập chờn thu
ngỡ như không phải vất vả chi nhiều sau tiếng sấm thế là trời mới mẻ quả đã buông thủng thẳng xuống bờ ao ta cứ tưởng đất sinh sôi thật dễ
trời thu xanh và hoa mướp thu vàng thưa mẹ những năm bom nơi con không thể có
bến phà con đã qua, rừng già con đã ở gặp vạt lúa nương con cũng viết thư về nên không dám dù một giây sao nhãng bầu trời này từng dẫn dắt con đi.
Lời bình:
Bầu trời trên giàn mướp mang đậm chất giản dị, mộc mạc với hình ảnh thiên nhiên làng quê Việt Nam. Qua hình ảnh giàn mướp xanh mướt dưới bầu trời trong veo, Hữu Thỉnh gợi lên sự yên bình, tươi mát và hy vọng về một cuộc sống giản đơn nhưng đầy đủ, hạnh phúc. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu hiện của lòng yêu quê hương, yêu đời.
Một ngày
Chiếc ly còn trên bàn Thêm một ngày kỷ niệm chưa bị đem bán Em chưa đứng chợ đen Kiếm ăn bằng lừa đảo.
Thêm một ngày yên tâm nhìn các con Chưa bôi xóa chưa phản loạn Bạn cũ ghé thăm nhà Chưa theo kiểu hợp đồng hai chiều.
Anh cầm đũa và vuốt tóc em Thêm một ngày bằng bàn tay sạch Uống nước còn biết tự xấu hổ Chưa hắt cặn sang người khác
Người xanh người đỏ Gánh gió leo dây Bắc thang hỏi trời Đèn khêu trước bão
Thêm một lần đi trên gai Thêm một ngày được làm người lương thiện.
Lời bình:
Bài thơ Một ngày thể hiện một khoảnh khắc bình thường trong cuộc sống, nhưng dưới ngòi bút của Hữu Thỉnh, những chi tiết nhỏ nhặt cũng mang theo sự sâu lắng và ý nghĩa. Qua một ngày, tác giả gửi gắm thông điệp về sự quý trọng thời gian, về cách con người có thể tìm thấy ý nghĩa trong từng khoảnh khắc dù ngắn ngủi.
Ước
Có cái gì đã rơi Vừa rơi thêm lần nữa Chỉ còn một mình anh Với chiều qua cửa sổ
Mùa thu cũng bỏ trời Đi về miền tiếc nuối Có con tàu mệt mỏi Thét còi trong tim anh
Ước có em ngoan mềm Chợt đến cùng ngọn gió Tóc em hay mây thở Bàng hoàng trên vai anh
Lời bình:
Ước là bài thơ giản dị nhưng đầy sức mạnh, thể hiện những mong ước nhỏ bé mà sâu sắc của con người về cuộc sống. Hữu Thỉnh khắc họa những điều ước bình dị như hạnh phúc, an lành, sự sum vầy trong gia đình và hòa bình cho đất nước. Qua bài thơ, ông nhắc nhở người đọc về sự trân trọng những điều giản dị mà quan trọng trong cuộc sống.
Hoa tặng
Bông hoa này tới em Sau bao người mặc cả Con đường này tới em Sau bao nhiêu lầm lỡ
Người ta đã nhấc lên Rồi người ta đặt xuống Anh là kẻ dại khờ Mua hoa này đem tặng
Anh muốn bước thật êm Nhưng cầm sao nổi gió Biết vậy em vẫn cười “Anh xem, hoa vừa nở”.
Lời bình:
Hoa tặng mang trong mình vẻ đẹp của lòng biết ơn và sự kính trọng. Qua hình ảnh hoa tặng, Hữu Thỉnh khéo léo gửi gắm thông điệp về sự tri ân, về những giá trị tinh thần cao quý mà con người nên trân trọng và dành cho nhau. Hoa không chỉ là vật phẩm mà còn là biểu tượng của tình cảm, của lòng chân thành.
Xa vắng
Xa xắng quá bồn chồn đi hỏi cát Đường đông người, đâu nhỉ dấu chân em
Xa vắng quá một mình đi hỏi bến Người sang đò có dặn sóng gì thêm
Xa vắng quá tần ngần đi hỏi chợ Người mua gương dạo ấy có hay về?
Người mua gương đã một lần trở lại Soi tưng bừng, rồi lặng lẽ quay đi
Lời bình:
Xa vắng là bài thơ gợi lên cảm giác cô đơn và nhớ nhung khi những người thân yêu không còn ở bên. Hữu Thỉnh khéo léo thể hiện nỗi lòng của người xa cách, vừa da diết, vừa u buồn, nhưng cũng đầy trân trọng những kỷ niệm đã qua. Qua bài thơ, ông gửi gắm sự tiếc nuối về thời gian và tình cảm đã qua đi.
Tự thú
Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu Cây đổ về nơi không có vết rìu Ôi hoa tặng, chiều nay ai dẫm nát Mưa dập vỡ trên đường em trở gót
Người yêu thơ chết vì những đòn văn Người say biển bị dập vùi trong sóng Người khao khát ngã vì roi mơ mộng Ta yêu mình tan nát bởi mình ơi.
Lời bình:
Tự thú là một lời bày tỏ chân thành, nơi Hữu Thỉnh thể hiện sự phản tỉnh và đối diện với chính bản thân mình. Với những câu từ mộc mạc nhưng thấm đẫm sự thật lòng, ông thổ lộ những suy tư về những sai lầm, những khuyết điểm và cả mong muốn sửa đổi. Đây là một bài thơ mang tính chất tự vấn và hướng thiện.
Thứ hoa đẹp nhất
Anh trao thầm bàn tay anh cho tôi Bàn tay nóng tôi nhận vào cơn sốt Tôi vét mãi mới tìm ra hạt thóc Hạt thóc gầy ram ráp cứa vào đêm
Chúng tôi đi mót cuối bìa rừng Giặc vừa rút sau một ngày rình rập Gió ầm ào qua nương Những bông lúa chỉ còn là bã gió
Chúng tôi tuốt phồng tay Chúng tôi còn tuốt nữa Hạt thóc nhằn ấm cả đêm suông Đất rừng mênh mông Đất núi mênh mông Đất nhiều thế mà hiếm hoi hạt thóc
Chúng tôi nhìn dúm thóc trên tay Những hạt thóc đã biến thành thuốc quý Thóc hóa con đê ngăn cái chết dần mòn
Tôi hiểu vì sao anh đã khóc Trong một sáng giao ban - Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả
Cứ đói ròng con gái hóa con trai Cám ơn ngọn rau dựng người ốm dậy Cám ơn con suối, cám ơn bờ khe Con tép chết bom từ bến ngược trôi về Nếu không đói không thể nào vớt được
Phát một mảnh rừng, trần lưng cuốc cuốc Cuốc và vun rồi kéo cỏ ngụy trang Anh nhón tay cắm hạt bí đầu tiên Đêm mở cỏ đêm lần đi tưới nước
Hoa bí đỏ từ vạt nương Tư lệnh Đổ dần sang khắp cứ bạn ngàn Anh xoa xuýt trước màu hoa cứu đói Đấy, thứ hoa đẹp nhất của đời anh.
- Cơn đói đi qua không để lại mảnh gì làm di vật Không phải trận bom nên không dễ sưu tầm - Kiên nhẫn chút, hỡi nhà viết sử Đây, căn hầm Tư lệnh, hãy vào thăm
Hãy nắm chặt bàn tay mót thóc Nhìn mái đầu quá nửa chẳng còn xanh Những sợi tóc đứng yên mà ta nhìn thấy bão Bao thăng trầm như sóng đánh qua anh.
Lời bình:
Thứ hoa đẹp nhất của Hữu Thỉnh là bài thơ tôn vinh vẻ đẹp tinh khiết của loài hoa tượng trưng cho tình yêu và lòng trung thực. Ông không chỉ miêu tả vẻ đẹp hình thức của hoa mà còn ca ngợi giá trị tinh thần mà loài hoa mang lại, đại diện cho sự trong sáng, lòng nhân ái và sự trân trọng đối với những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Xứ phật
Thu hết mọi tiếng chuông thành một sắc áo vàng Mây lót ổ chim gù bên kinh kệ Hoa xứ Phật dặt dìu hương nhập thế Người giữa đời thổn thức muốn thành sư.
Lời bình:
Bài thơ Xứ Phật đưa người đọc đến một không gian thanh tịnh, nơi con người có thể tìm thấy sự yên bình và giác ngộ trong cuộc sống. Qua hình ảnh thiêng liêng của “xứ Phật”, Hữu Thỉnh bày tỏ sự kính trọng đối với triết lý nhà Phật, cũng như mong muốn tìm kiếm sự thanh thản, an nhiên trong tâm hồn.
Trước mặt là Tổ Quốc
Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa Lửa đang soi mặt đất mấy tầng đêm Những cơn khát bậm môi vào bẹ chuối Hiện lên Những dấu gậy cơn sốt rừng run bắn Hiện lên Những giọt mồ hôi ròng như nến chảy Hiện lên Thơ hãy đến góp một vài que củi Cho em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình Thơ không phải những dây bìm trang trí Kéo nhoè đi những rễ cây tứa nhựa Bão động rừng sao thơ chỉ rung rinh? Muốn tươi mát hãy tự là dòng suối Hát về rừng đừng bắt chước tiếng chim Anh quên thơ để nhớ gốc sim cằn Dăm bảy lá lèo tèo như mực rớt Sim như là không có cũng không sao Ấy thế mà chúng anh thay nhau đến đây để mà hy vọng Tưởng không sim thì không cả đời mình
Giặc đổ xuống ba tiểu đoàn “trâu điên” Bò theo chúng hai hàng máy ủi Trận đánh lại bắt đầu mới nguyên Súng lại nổ như chưa từng ác liệt Gốc sim cằn nếu kẻ thù chiếm được Chúng làm đà dũi lấy cánh rừng le Từ cánh rừng le chúng tràn xuống con đường và cứ thế
Từ “vết dầu loang” đến “tằm ăn rỗi” Lại thám báo dò đường, B.52 dọn bãi Lại dò đường, dọn bãi tới lui Đất vụn nát trong bữa tiệc quay cuồng của thép Máy ủi hết ngọt ngào trên mỗi trái tim ủi rồi lấp Bằng chính đất mà chúng vừa chiếm được Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc? Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim Anh đang bò về phía gốc sim Ngực đập dội chuyền sang đất đá Quần áo tướp ra Một nửa người anh dâm dấp máu Anh đang đau cho đất đá anh yêu Gốc sim cằn và xơ xác làm sao Không che nổi anh đâu, bò cách chi cũng lộ Em có thể mất anh bất cứ lúc nào Em có thể bơ vơ khi em còn rất trẻ Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre Phơi nỏ sẵn dành sưởi đêm cho mẹ Sông ơi sông nếu ta phải ra đi Bậc thấp xuống cho em ra gánh nước Xin bát canh đến tay mẹ lúc còn nóng Xin mùa đông đừng dài Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm Trời bao nhiêu thu ta mới hát một lần Nhưng trước mặt là Tổ quốc Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện.
***
- “Hãy lấy đạn mà cưa thằng cuồng tín Một thằng ngu muốn chết thay cây” - “Cứ bò tới chộp cho thiệt lẹ Rồi moi bụng nó ra Xem có máu hay chỉ toàn hắc ín” - “Tao muốn coi nó chết từ từ Coi nó chết nó gọi ai trước nhất”
- “Thôi hãy quăng lựu đạn đi thôi Cho nó chết thiệt mau để tao còn chụp ảnh Tao cần tiền chứ tao không cần nó” … Em có nghe thấy không? Em xa cách em là vùng che chở Sỏi buốt quá Bò thì đau mà không bò thì chết
Em có tin đấy là tiếng con người Giọng thổ, giọng kim vẫn thường to nhỏ Khi bao điều không kể hết bằng tay Anh vừa bò vừa nghe Không mật mã không cần phiên dịch Tiếng mẹ ru ta cuối bãi đầu ghềnh Me đi đốt than mẹ thường gánh vã Nhem nhuốc cả ngày xanh Cắn răng mà chịu Bấm bùn mà đi Giữ cho được tiếng mình Cho em ngập ngừng khi buông gầu xuống giếng Sợi dây chùng do dự trước trăng in Những thằng nguỵ kia nó cũng có mẹ Mẹ nó đang héo đi, đang mong nó trở về ấy thế mà tại sao nó cứ đòi giết anh Chỉ vì anh thương một gốc sim và nhớ em không nói được
Cứ sấn lại Những chiếc túi áo đen ngòm những quan tài đói Chúng nó đang săn ngày sum họp của ta Khoen lựu đạn anh cắn vào lặng lẽ … Chẳng nhớ anh chồm tới ra sao Chỉ nhớ cái lặng im khi không còn chúng nó Cái lặng im hoàn toàn Anh nằm nghe anh thở Ngôi sao xanh rơi xuống lá sim Thành giọt sương từ lá sim rơi xuống
Đêm ngọt ngào mà lại chát em ơi Anh tỉnh lại vì môi mình dính đất Từ những chiếc khoen lựu đạn ban chiều Đất mặn đắng tan dần rồi chảy khắp Đất thầm thì và nóng bỏng như em
Anh đã qua những ngày bám chốt Để tới buổi sáng nay Một buổi sáng chẳng có gì to tát Ve vẫn kêu úp mặt vào cây Không sương sớm để cho lòng bẫng lẫng Nhưng sáng nay là buổi sáng thượng nguồn Những kỷ niệm sẽ ngược về để nhớ.
Lời bình:
Bài thơ Trước mặt là Tổ Quốc là một bài thơ đầy khí phách và tự hào, nơi Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh đất nước hùng vĩ, thiêng liêng mà người dân luôn mang trong lòng. Ông thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt, sự sẵn sàng hy sinh và đấu tranh vì sự trường tồn và phát triển của Tổ quốc. Đây là một bài thơ mạnh mẽ, đầy cảm xúc.
Đi trong mây
Đi trong mây anh thấy ấm em à Tiếng suối giục nghe khi mờ khi tỏ Những tâm sự lúc thường nghe chẳng rõ Đi trong mây tí tách sáng dần ra
Đi trong mây anh nghe tiếng chim Hồn hậu quá như bàn tay em ấy Đi trong mây tiếng bom nghe nhỏ lại Để nhường cho tiếng gậy trập trùng vang
Những bước chân khua rộn cả không gian Qua dốc đá vịn vai nhau mà bước Núi tốt bụng đang ngồi xanh phía trước Đợi đoàn anh vượt nốt đám mây này.
Lời bình:
Đi trong mây của Hữu Thỉnh là một bài thơ miêu tả khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nơi con người cảm thấy nhỏ bé và hòa mình vào thiên nhiên. Qua hình ảnh mây trắng trôi, ông gợi lên cảm giác tự do, phiêu du và sự thanh thản trong tâm hồn.
Bài thơ còn mang đến những suy tư về cuộc sống, về sự nhẹ nhàng và bình yên khi con người biết buông bỏ những gánh nặng.
Mùa xuân đi đón
Bắt gặp đám cỏ non Lòng thơ như trẻ con Muốn gọi đàn bê đến Bứt cỏ đưa nó ăn
Một thoáng vã hành quân Hai chân phồng dộp cả Quấn khăn vẫn còn đau Nhiều lúc “đi bằng đầu”
Đến đây, kỳ lạ chưa Không ai ra lệnh hết Tất cả đều tụt dép Ướm nhẹ lên cỏ mềm
Được màu xanh tắm gội Lòng rân rân cả lên Chúng tôi vui tính lắm Những chuyện nhỏ không đâu
Cũng ồn ào bàn tán Mà trước cỏ bây giờ Chỉ nhìn nhau im lặng Chỉ im lặng nhìn nhau
Mùa xuân hẳn bắt đầu Trên quê mình lất phất Mấp máy lúa chiêm lên Cỏ đội bờ thả sức
Ở đây nghe rõ nhất Bao lời quê nhắn nhe
Chiến trường đang gọi đi Súng hành quân mải miết Mùa xuân cho cỏ biếc Đi đón ta dọc đường.
Lời bình:
Mùa xuân đi đón là bài thơ ca ngợi sự tươi mới, hy vọng và niềm vui mà mùa xuân mang lại. Hữu Thỉnh khéo léo miêu tả sự tràn đầy sức sống của thiên nhiên và con người khi mùa xuân đến, đồng thời cũng gợi lên khát khao về sự tái sinh và những bắt đầu mới.
Một số tác phẩm tiêu biểu của Hữu Thỉnh thể loại văn xuôi
Bên cạnh các bài thơ của Hữu Thỉnh thì các tác phẩm văn xuôi, truyện và tiểu luận phê bình văn học của ông cũng rất nổi tiếng.
Lý do của hi vọng
Lý do của hi vọng là tác phẩm văn xuôi thể hiện những suy tư và trải nghiệm của Hữu Thỉnh về cuộc sống, chiến tranh, và tương lai của đất nước. Tác phẩm đi sâu vào những khó khăn mà dân tộc Việt Nam phải đối mặt trong những năm tháng chiến tranh ác liệt.
Tuy nhiên, trong những lúc gian khó nhất, nhân dân vẫn không ngừng hy vọng, tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng. Bằng những câu chuyện nhỏ, tác giả khắc họa hình ảnh những con người kiên cường, sống với lý tưởng và niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng và sự phát triển của đất nước sau chiến tranh.
Lời bình:
Tác phẩm sâu sắc, mang đến thông điệp về sức mạnh của lòng tin và niềm hy vọng trong cuộc sống. Hữu Thỉnh đã khéo léo kết hợp giữa trải nghiệm thực tế với cảm xúc tinh tế, tạo nên một tác phẩm vừa hiện thực, vừa lãng mạn.
Tác giả không chỉ thể hiện sự kiên cường của người Việt Nam trong cuộc chiến tranh mà còn khơi dậy lòng yêu nước và khát vọng về một tương lai hòa bình, hạnh phúc. Đây là một tác phẩm truyền cảm hứng, giúp người đọc thêm tin tưởng vào khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách của con người.
Đường lửa mùa xuân
Đường lửa mùa xuân kể về những người lính trẻ bước vào cuộc chiến tranh với tinh thần hăng hái và đầy lòng dũng cảm. Mùa xuân trong tác phẩm không chỉ là thời điểm của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tuổi trẻ, của sự sống mãnh liệt.
Hữu Thỉnh đã khắc họa hình ảnh những người lính vượt qua những con đường khói lửa, đối diện với cái chết và sự tàn phá của chiến tranh, nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào một tương lai tươi đẹp. Những con đường cháy bỏng giữa mùa xuân là biểu tượng cho sự hy sinh và ý chí không lùi bước của những người lính.
Lời bình:
Đây là tác phẩm mạnh mẽ và cảm động, nơi Hữu Thỉnh không chỉ ca ngợi lòng dũng cảm của người lính mà còn tôn vinh vẻ đẹp của sự hy sinh vì tổ quốc. Tác phẩm đem đến cho người đọc một cảm giác vừa bi tráng vừa tràn đầy hy vọng.
Hữu Thỉnh đã tinh tế sử dụng hình ảnh mùa xuân - biểu tượng của sự tái sinh và hy vọng - để đối lập với sự khắc nghiệt của chiến tranh, qua đó làm nổi bật tinh thần bất khuất của người lính. Tác phẩm không chỉ phản ánh những khía cạnh hiện thực khốc liệt của cuộc chiến mà còn khơi gợi lòng yêu nước, sự kính trọng đối với những người đã ngã xuống vì tự do.
Mưa xuân trên tháp pháo
Mưa xuân trên tháp pháo là câu chuyện xoay quanh những người lính trên chiến trường, với khung cảnh chiến tranh đầy khốc liệt nhưng cũng không thiếu những khoảnh khắc lãng mạn và ấm áp của tình đồng đội, tình yêu thiên nhiên. Trong tác phẩm, Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh mưa xuân nhẹ nhàng trên những tháp pháo, tạo nên một sự đối lập giữa sự tàn bạo của chiến tranh và vẻ đẹp thanh khiết của thiên nhiên.
Những người lính, dù sống trong môi trường khắc nghiệt, vẫn cảm nhận được sự mềm mại của cuộc sống, từ đó nuôi dưỡng ý chí và hy vọng chiến thắng.
Lời bình:
Đây là tác phẩm giàu chất trữ tình, nơi Hữu Thỉnh đã thành công trong việc hòa quyện hai hình ảnh đối lập: sự tàn phá của chiến tranh và vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên. Mưa xuân trong tác phẩm mang lại cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản giữa khung cảnh khói lửa, gợi lên một niềm tin mãnh liệt vào sự sống và hy vọng.
Tác phẩm thể hiện sự nhạy bén trong cách nhìn nhận cuộc sống của Hữu Thỉnh, khi ông nhận ra rằng ngay cả trong những thời khắc đen tối nhất, con người vẫn có thể tìm thấy vẻ đẹp và niềm an ủi từ thiên nhiên. Điều này làm nổi bật tinh thần lạc quan và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.
Lời kết
Tác phẩm Hữu Thỉnh mang đến cái nhìn chân thực về cuộc sống của con người Việt Nam trng thời kỳ đổi mới sau năm 1975. Mỗi tác phẩm, dù là văn xuôi hay truyện đều mang đậm dấu ấn thời đại. Phong cách sáng tác của Hữu Thỉnh giản dị nhưng vẫn đầy sức gợi.