Thơ Phạm Tiến Duật giàu hình ảnh biểu tượng, cảm xúc khiến người đọc bồi hồi xúc động. Ông tập trung khai thác chủ đề kháng chiến và người lính với nhiều tác phẩm tiêu biểu như Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây hay Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Trọn bộ thơ Phạm Tiến Duật
Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) là nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại. Hầu hết những tác phẩm của Phạm Tiến Duật đều xoay quanh chủ đề kháng chiến và người lính trong cuộc chiến chống Mỹ của quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng là lý do ông được mệnh danh như Con chim lửa của Trường Sơn.

Cùng điểm qua những bài thơ của Phạm Tiến Duật:
- Thơ Gửi em cô bộ đội lái xe (1968)
- Tập thơ Vầng trăng & Quầng lửa (1970)
- Thơ Ở hai đầu núi (1981)
- Thơ Vầng Trăng và những quầng lửa (1983)
- Tuyển tập Thơ một chặng đường (1994)
- Thơ Nhóm lửa (1996)
- Trường ca Tiếng bom và tiếng chuông chùa (1997)
- Tiểu luận Vừa làm vừa nghĩ (2003)
- Tuyển tập Phạm Tiến Duật (2007)
Những tác phẩm tiêu biểu của Phạm Tiến Duật
Những bài thơ hay của Phạm Tiến Duật mang đến cho người đọc nhiều hình ảnh và cảm xúc. Cùng điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu nhất sau:
Nhớ
Cái vết thương xoàng mà đi viện Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
Lời bình:
Nhớ của Phạm Tiến Duật là một bài thơ thể hiện nỗi nhớ nhung sâu sắc, thường gắn liền với những ký ức và cảm xúc về người đã xa cách. Bài thơ sử dụng hình ảnh, âm thanh và cảm xúc để thể hiện nỗi nhớ của tác giả, kết hợp với cách diễn đạt tinh tế và sâu lắng.
Nhớ không chỉ là nỗi nhớ về một người hay một sự vật cụ thể, mà còn là sự hoài niệm về những giá trị và khoảnh khắc đã qua. Phạm Tiến Duật khéo léo sử dụng ngôn từ để gợi mở những cảm xúc mạnh mẽ, tạo ra một không gian thơ mộng nhưng cũng đầy tâm trạng.
Lửa đèn
I. Đèn
Anh cùng em sang bên kia cầu Nơi có những miền quê yên ả Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá Quả cây chín đỏ hoe Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu Trỏ lối sang mùa hè, Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu Thắp mùa đông ấm những đêm thâu, Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng… Mạch đất ta dồi dào sức sống Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương Chúng nó đến từ bên kia biển Rủ nhau bay như lũ ma trơi Từ trên trời bảy trăm mét Thấy que diêm sáng mặt người Một nghìn mét từ trên trời Nhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ bé Tám nghìn mét Thấy ánh lửa đèn hàn chớp loé Mà có cần đâu khoảng cách thấp cao Chúng lao xuống nơi nao Loé ánh lửa, Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa. Trên đất nước đêm đêm Sáng những ngọn đèn Mang lửa từ nghìn năm về trước, Lấy từ thuở hoang sơ, Giữ qua đời này đời khác Vùi trong tro trấu nhà ta. Ôi ngọn lửa đèn Có nửa cuộc đời ta trong ấy! Giặc muốn cướp đi Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy
II. Tắt lửa
Anh cùng em sang bên kia cầu Nơi có những miền quê yên ả Nơi tắt lửa đêm đêm khiến đất trời rộng quá Không nhìn thấy gì đâu Bóng tối che rồi Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói Bông hoa làm duyên phải luỵ hương bay… Bóng tối phủ dày Che mắt địch Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích Kéo pháo lên trận địa đồng cao Tiếng khẩu đội trưởng ở đâu Đấy là đuôi khẩu pháo Tiếng anh đo xa điểm đều Vang ở đâu, đấy là giữa điểm đồ Nơi tắt lửa là nơi in vết bánh ôtô, Những đoàn xe đi như không bao giờ hết, chiếc sau nối chiếc trước ì ầm Như đàn con trẻ chơi u chơi âm Đứa này nối hơi đứa khác.
Nơi tắt lửa là nơi dài tiêng hát Đoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường; Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương Đêm tắt lửa trên đường Khi nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch Là tiếng những đoàn quân xung kích Đi qua. Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút Bóng tối dâng đầy toả ngợp bao la, Thành những màn đen che những bào thai chiến dịch Bóng đêm ở Việt Nam Là khoảng tối giữa hai màn kịch Chứa bao điều thay đổi lớn lao,
Bóng đêm che rồi không nhìn thấy gì đâu Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
III. Thắp đèn
Anh cùng em sang bên kia cầu Nơi có những miền quê yên ả Nơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn phá Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên Chiếc đèn chui vào ống nứa Cho em thơ đi học ban đêm, chiếc đèn chui vao lòng trái núi Cho xưởng máy thay ca vời vợi, Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn Cho những tốp trai làng đọc lá thư thăm
Ta Thắp đèn lên trên đỉnh núi Gọi quân thù đem bom đến dội Cho đá lở đá lăn Lấy đá xây cầu, lấy đá sửa đường tàu Ta bật đèn pha ôtô trong chớp loè ánh đạn Rồi tắt đèn quay xe Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đi… Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắng Anh dắt tay em, trời chi chit sao giăng “Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm” Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh Nơi ấy là phòng cưới chúng mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp Mang hình những người những cảnh hôm nay Cho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay.

Lời bình:
Trong Lửa đèn, Phạm Tiến Duật sử dụng hình ảnh lửa và đèn để thể hiện sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và cái chết. Bài thơ có thể gợi nhớ đến những kỷ niệm trong hoàn cảnh khó khăn, nơi ánh sáng từ ngọn lửa và đèn mang lại sự ấm áp và hy vọng giữa những lúc đau thương. Ngôn từ và hình ảnh trong bài thơ không chỉ mô tả một cảnh vật cụ thể mà còn phản ánh những cảm xúc sâu lắng của con người trong hoàn cảnh đặc biệt.
Mùa cam
Mía ngọt dần lên ngọn Gió heo may chớm sang, Trái hồng vừa trắng cát Vườn cam cũng hoe vàng.
Cam Xã Đoài mọng nước Giọt vàng như mật ong, Bổ cam ngoài cửa trước Hương bay vào nhà trong.
Lời bình:
Mùa cam của Phạm Tiến Duật gợi lên hình ảnh mùa cam với màu sắc rực rỡ và hương thơm dễ chịu. Bài thơ có thể sử dụng hình ảnh này để làm nổi bật những điều tốt đẹp và hy vọng trong cuộc sống, hoặc để nhấn mạnh sự chuyển giao của thời gian và sự thay đổi của mùa màng.
Tác giả khéo léo kết hợp cảm xúc và hình ảnh thiên nhiên để tạo ra một bức tranh sinh động, phản ánh sự trân trọng và yêu quý những giá trị giản dị trong cuộc sống.
Cái cầu
Có lẽ nào anh lại mê em Một cô gái không nhìn rõ mặt Đại đội thanh niên đi lấp hố bom Áo em hình như trắng nhất.
Người tinh nghịch là anh dễ thân Bởi vì thế có em đứng gần Em ở Thạch Kim, sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn Đêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc dài quanh hố bom Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn: Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.
Tranh thủ có ánh sáng đèn dù Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt Mọi người cũng tò mò nhìn anh Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối. Em ơi em, hãy nghe anh hỏi Xong đoạn đường này các em làm đâu?
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu Cô gái ở Thạch Kim, Thạch Nhọn Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều Những con đường như tình yêu mới mẻ Đất rất hồng và người rất trẻ Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn, Thạch Kim
Những đội làm đường hành quân trong đêm Nào cuốc, nào choòng, xoong nồi xủng xoảng Rực rỡ mặt đất bình minh Hấp hối chân trời pháo sáng Đường trong tim anh in những dấu chân.
Chiếc võng bạt trên đường hành quân Anh đã buộc nhiều cây xoan, cây ổi Lại đường mới - và hàng nghìn cô gái Ở đâu em tinh nghịch của anh?
Bụi mù trời, mùa hanh Nước trắng khe, mùa lũ Đêm rộng đêm dài là đêm không ngủ Em vẫn đi, đường vẫn liền đường.
“Cạnh giếng nước có bom từ trường En không rửa, ngủ ngày chân lấm Ngày em phá nhiểu bom nổ chậm Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà…” Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa Thương em, thương em, thương e,m biết mấy!
Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại Sẽ giật mình: đường ta mới xây Đã có độ dài hơn cả độ dài Của đường sá đời xưa để lại!
Sẽ ra về bao nhiêu cô gái Một ngày mai, đường sẽ đứng trơ vơ Để cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Ơi em gái chưa một lần rõ mặt Có lẽ nào anh lại mê em Từ cái đêm Thạch Nhọn, Thạch Kim Tên em đã thành tên chung anh gọi: Em là cô thanh niên xung phong.
Lời bình:
Cây cầu thường là một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng trong thơ của Phạm Tiến Duật. Cây cầu có thể đại diện cho sự kết nối, sự giao thoa giữa những thế giới khác nhau hoặc những giai đoạn trong cuộc sống.
Bài thơ có thể khám phá ý nghĩa của cây cầu trong việc kết nối những khoảng cách, cả về mặt vật lý lẫn tinh thần. Sự miêu tả chi tiết và cảm xúc trong bài thơ làm nổi bật vai trò quan trọng của những kết nối trong cuộc sống.
Đèo ngang
Pháo tàu địch đêm đêm nhằm bắn Đèo vẫn nguyên lành nằm với biển reo Nhà như lá đa rơi lưng chừng dốc Sông suối từ đâu đổ xuống lưng đèo.
Đường nhằm hướng Nam,
Người nhằm hướng Nam, Xe đạn nhằm hướng Nam vượt dốc.
Bao nhiêu người làm thơ Đèo Ngang Mà quên mất con đèo chạy dọc.
Lời bình:
Đèo ngang là bài thơ mô tả vẻ đẹp và sự vất vả của những con đèo trong cuộc sống, cả về mặt vật lý lẫn tinh thần. Phạm Tiến Duật sử dụng hình ảnh con đèo để thể hiện những thử thách và khó khăn mà con người phải vượt qua.
Tuy nhiên, trong những gian nan ấy, vẫn có sự tìm kiếm và khám phá những giá trị sâu sắc và đẹp đẽ. Bài thơ thể hiện sự kiên cường và tinh thần lạc quan trước những thử thách.
Cái cập kênh
Cái trò để trẻ con chơi Hai đầu hai ghế cập rồi lại kênh Gỗ hồng trời biếc một thanh Nhấp nhô nhà cửa gập gành núi non Cái nơi đông đúc trẻ con Xa rồi. Vườn cũ em còn đến không?
Anh đi núi biếc trập trùng Non xa mấy dải, một vùng quân đi Thấy núi nổi lúc xuống khe Thấy non sa xuống ấy khi lên đèo Theo từng bậc núi anh trèo Cập kênh vẫn cập kênh theo đường dài
Phía trong nhớ một vùng ngoài Những bao gạo gửi đường dài tới đây Hậu phương dư thóc vụ này Vẫn thương em khổ những ngày xa nhau Cái cập kênh ở vườn sau Đã thay anh nói những câu tâm tình Gỗ hồng làm ghế một thanh Một đầu cập, để lại kênh một đầu
Lời bình:
Cái cập kênh sử dụng hình ảnh cụ thể để phản ánh những câu chuyện và cảm xúc trong cuộc sống. Cái cập kênh có thể là biểu tượng của những ký ức, những trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày hoặc những điều nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa. Phạm Tiến Duật khéo léo dùng hình ảnh này để làm nổi bật sự quan trọng của những điều giản dị và gần gũi trong cuộc sống.
Đi trong rừng
Anh đi trong rừng, lá vỗ trên cao, Gió bốn bề cây; cây ngả nghiêng chào, Lay bóng đậm gió thổi vào đốm nắng. Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay; Cây bồng bềnh cười vui suốt ngày, Thân thẳng cây chò, cành ngang cây bứa; Cây nhựa trắng là cây si, cây sữa, Nhựa vàng cây dọc, nhựa đỏ cây nò, Cây nứa mọc đứng, cây giang mọc bò, Cây tầm gửi mọc ngồi đỏng đảnh, Cây lim uy nghi, sa nhân ma mỏng mảnh, Dạ hương của đêm, mắc cỡ của ngày. Da bàn tay thường chạm với da cây, Khuôn mặt người chạm vào mặt lá. Rừng ơi rừng, ta bỗng gần gũi quá! Không có những ngày này, hồ dễ đã quen nhau

Lời bình:
Đi trong rừng miêu tả hành trình khám phá và trải nghiệm trong một khu rừng. Bài thơ có thể chứa đựng những hình ảnh sống động của thiên nhiên và những cảm xúc mạnh mẽ mà nhân vật trải qua khi đối mặt với môi trường hoang dã. Phạm Tiến Duật sử dụng những hình ảnh và mô tả tinh tế để thể hiện sự kết nối giữa con người và thiên nhiên, đồng thời khám phá những cảm xúc và suy tư trong cuộc hành trình.
Những mảnh tàn lá
Tốp bộ binh đang chờ xung phong Ngửa mặt nhìn trời Những mảnh tàn đen của lá nứa đang rơi Dữ dội rừng bên bốc cháy
Tôi cũng nhìn lên bầu trời lúc ấy Rơi từ mây những cánh bướm đen Cậu chiến sĩ bên tôi ngồi xuống, đứng lên Sốt ruột vì nghe nứa nổ Người cán bộ già nằm trên bãi cỏ Đăm đắm nhìn tàn lá đang rơi
Giặc đang ở bên kia đỉnh đồi Đại bác vu vơ bắn vào rừng nứa Như báo hiệu một cái gì sắp sửa Tàn lá đầy trời như mưa tuyết màu đen
Quân ta bao vây đã dày như nêm Giặc không biết đâu, chúng đang đốt rừng cho nứa nổ Nơi im lặng sắp bùng lên bão lửa Chỗ ồn ào đang hoá than rơi
Bên kia đỉnh đồi chúng nó là ai Là nguỵ ở Đông Dương hay là giặc Mỹ Khi cái ác đã biến thành chủ nghĩa Rất nhiều thứ màu đen hiện hình
Đứng ngồi không yên vẫn đồng chí bộ binh Chờ dăm phút nữa thôi, có lâu là mấy Những mảnh tàn rơi trên đầu ta đấy Đã từng rơi từ mấy nghìn năm
Tai hoạ nhân gian đã chịu bao lần Như nạn cháy nhà, làng nào chẳng có Còn giặc giã là còn tàn lá cọ Còn ngửa mặt lên trời để thấy than đen
Quân ta bao vây đã dày như nêm Cái ác không còn nơi lẩn trốn Trừ mưa ra, ngày mai bầu trời không có gì rơi xuống chỉ có chim bay và bướm bay
Tàn lá đang rơi nhẹ nhàng khoan thai lại vẽ bầu trời những đường dữ dội Súng lệnh nổ rồi! Cả vùng rừng bốc khói Những mảnh tàn rơi xuống lại bay lên
Lời bình:
Những mảnh tàn lá là bài thơ thể hiện sự thăng trầm và những biến động của cuộc sống thông qua hình ảnh những mảnh tàn lá. Bài thơ có thể gợi lên hình ảnh của sự suy tàn, sự kết thúc và sự chuyển giao của thời gian. Tuy nhiên, trong những mảnh tàn lá đó, vẫn có thể tìm thấy những giá trị và ý nghĩa sâu sắc, phản ánh tinh thần lạc quan và sự trân trọng những điều nhỏ bé trong cuộc sống.
Bếp lửa nhà mình
Ngày đầu năm em xây bếp mới Thế là gió mùa đông bắc tạnh rồi em Chung bếp lửa là chung niềm thao thức Sợi khói bay nghiêng vẽ dáng em hiền
Cả tuổi thanh xuân anh đốt lửa giữa trời Cũng là bếp nhưng bếp chung bè bạn Hết bếp lửa sinh viên, lại lửa rừng cháy sáng Nấu nồi sắn nồi khoai tập thể, lính ăn chung.
Ngọn lửa ơi, lòng lửa tốt vô cùng Lửa sinh ra người, lửa sinh ra trái tim rực cháy Lửa làm bóng tối xa ra và mặt người gần lại Ngọn lửa nào thân bằng lửa bếp, bạn bè ơi!
Lòng vẫn khát khao đốt lửa giữa trời Đến với mọi cộng đồng, đến với mọi màu da trên toàn trái đất Nhưng chỉ bếp nhà mình là ấm nhất Bởi yêu em, nhân loại thấy yêu thêm.
Lời bình:
Bếp lửa nhà mình gợi lên hình ảnh ấm cúng và sự gắn bó của gia đình qua hình ảnh bếp lửa. Bài thơ không chỉ mô tả một không gian cụ thể mà còn thể hiện sự ấm áp và tình cảm gia đình. Phạm Tiến Duật khéo léo sử dụng hình ảnh bếp lửa để làm nổi bật sự quan trọng của tình yêu thương và sự đoàn kết trong gia đình.
Em là tia nắng
Sinh ra cùng với mặt trời Em là tia nắng vùng đời của anh Nửa đời anh chẳng êm lành Quầng bom lửa đỏ, da xanh sốt rừng Mùa mưa em có biết không Triền miên 6 tháng ròng ròng toàn mưa Chồn chân trong khoảng rừng thưa Lán bộ đội bấy sáng trưa nhớ… trời.
* * *
Sinh ra cùng với mặt trời Em là tia nắng vùng đời của anh Đường dài có lúc gập ghềnh Túi không em phải một mình nuôi con Khổ nào bằng khổ cô đơn Mà em vẫn một tấc son tự hồng Ai người biết thuở tay không Mà gương mặt vẫn tươi hồng nét xuân.
* * *
Qua rồi cái thuở gian truân Đích xa mà lại thấy gần em ơi Sinh ra cùng với mặt trời Em là tia nắng vùng đời của nhau.
Lời bình:
Em là tia nắng thể hiện sự yêu thương và sự trân trọng đối với một người đặc biệt. Hình ảnh tia nắng được sử dụng để biểu thị sự ấm áp, sự sống động và sự tươi sáng mà người ấy mang lại. Bài thơ thể hiện những cảm xúc chân thành và sự yêu mến sâu sắc, tạo ra một không gian thơ mộng và đầy cảm xúc.
Người ơi người ở
Bao nhiêu người đã hát Bây giờ lại đến em Bao nhiêu người hồi hộp Bây giờ lại đến anh Ở hai thung lũng xanh Kề nhau thành hàng xóm Công việc như nước cuốn Chẳng bao giờ thăm nhau Nắng đã tắt từ lâu Tiếng ve như kéo mật Dáng em ngồi trước mặt Như cây cỏ trong vườn Chẳng thể gặp nhau luôn Hãy ngồi thêm lát nữa Hai người hai cách nguồn Khép mở hai vùng trời Gặp biết bao nhiêu người Quen nhau bao gương mặt Con đường thì tít tắp Mặt trận thì mênh mông Chẳng nhớ nữa mùa đông Đi qua bao hang đá Cũng quên rồi mùa hạ Ở bao nhiêu ngăn hầm Công việc cùng tháng năm Hát vui cùng chiến sĩ Những ngày đi đánh Mỹ Bao nhiêu người quen nhau Anh chẳng nói sai đâu Em là cây ngải đắng Mọc trong triền núi vắng Góp vị thuốc cho đời Tiếng em hát “Người ơi…” Người gần nhau mãi mãi Tiếng em hát “Đò ơi…” Sông đưa đò gần lại Tiếng em hát “Cây ơi…” Cây nhú thêm mầm mới Tiếng nồng say em gọi Náo nức tuổi trăng lên Cái giọng thì của em Mà lời anh đấy nhỉ? Giữ em chẳng được nào Hẹn nhau ngày thắng Mỹ Lại hát tặng tiễn nhau Như bạn bè Quan họ Rằng: Người đi người nhớ Rằng: “Người ơi người ở đừng về…”
Lời bình:
Người ơi người ở thể hiện sự lo lắng và tâm trạng của người ở lại, có thể là sự hoài niệm hoặc sự chia xa. Bài thơ gợi lên cảm giác về sự thiếu vắng và nỗi cô đơn của những người ở lại khi người khác đã ra đi. Phạm Tiến Duật sử dụng ngôn từ và hình ảnh để truyền tải những cảm xúc sâu sắc và chân thành về sự chia ly và nỗi nhớ.
Nghe em hát trong rừng
Nghe em hát mà anh buồn cười Nhịp với phách xem chừng sai cả Mồ hôi em ướt đầm trên má Anh với mọi người nhìn nhau khen hay.
Khu rừng già âm i tàu bay Các chiến sĩ nhìn em đăm đắm Mũ sắt lấm, áo ngoài cũng lấm Mỗi khi cười bóng dáng cứ lung linh
Có lẽ vì khuôn mặt em xinh Nên tiếng hát nhoè đi không nhớ nữa Rồi trí nhớ lại bén bùng như lửa Ẩn náu rất nhiều giọng hát ở xa xăm.
Giữa một vùng đất bụi khô rang Em bỗng đến như dòng sông đầy nước Trong nhà hầm hun đầy khói thuốc Câu hát chành như võng đưa
Các chiến sĩ nghe em hát say sưa Ngày mai ngày kia sẽ chuyện trò vô khối Giữa những câu chuyện không đầu không cuối Bao nhiêu người lại nhắc đến em.
Câu hát bay vòng qua đêm Mai chiến sĩ lại ra cao điểm Cuộc chiến đấu đang còn tiếp diễn Em còn đi, rừng mở những gian hầm.
Tiếng hát bay vòng tháng năm Ở đâu mà không cần tiếng hát Nhưng giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc Là những tâm hồn có nhạc ở bên trong.
Câu hát màu chi mà khuôn mặt màu hồng Tiếng hát xa rồi, không nhớ nữa Đốt lòng nhau cứ gì phải lửa Tiếng hát trong rừng bay xa, bay xa.
Lời bình:
Nghe em hát trong rừng miêu tả vẻ đẹp của âm nhạc và sự kết nối giữa con người với thiên nhiên. Bài thơ có thể miêu tả những âm thanh du dương và cảm xúc khi nghe một bài hát trong môi trường rừng xanh.
Nhà thơ sử dụng hình ảnh và âm thanh để tạo ra một không gian thơ mộng, nơi âm nhạc trở thành cầu nối giữa con người và thiên nhiên.
Cô bộ đội ấy đã đi rồi
Cô bộ đội ấy đã đi rồi Chuyển đơn vị vào vùng rừng trong ấy Em gái đi, các anh ở lại Biết đến bao giờ mới được gặp nhau
Lũng thì thẳm mà rừng thì sâu Để hun hút nhớ nhau biền biệt Bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu bạn bè thân thiết Xa nhau như xa nhau hôm nay
Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay Nước mắt dễ lây mà rừng thì lặng quá Anh biết rồi bao nhiêu vất vả Tháng năm dài cùng nhau đi qua
Để sáu bảy năm em gái xa nhà Hăm bảy tuổi chuyện chồng con chưa nói Cả một thời trẻ trung sôi nổi Ở bên nhau bếp lửa giữa rừng xa
Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già Ngón tay nóng cầm viên thuốc mát Cái đêm đói ngồi nghe chim đắp tát Con chó vàng cọ chân em đòi ăn
Nhớ nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm Căn nhà dột tóc em ướt hết Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ
Nhớ trưa đỉnh đèo ta đứng ngẩn ngơ Nhìn mây trắng chân trời ngỡ biển Biển Đông thì xa, biết ta nhìn chẳng đến Nhưng em vui anh kể chuyện em nghe
Trưa vác gạo ta dừng bên khe Một đoàn tù binh đi qua đang đứng ngó Bên những thằng người áo quần loang lổ Bóng em lồng bóng suối trong veo Lúc ấy lòng anh biết mấy tự hào Tự hào vì có em ở đây, tự hào vì đất nước Ở đây màu hồng xiết bao thân thuộc Xao xuyến lòng anh, xao xuyến bạn bè
Đến chào anh sáng mai em đi Như ngày nào chào bà con hàng xóm Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay
Rồi ngày mai xa vắng nơi đây Em lại có bao nhiêu đồng đội mới Trong chiến tranh một khát khao sôi nổi Là nhân dân đoàn tụ muôn đời
Cô bộ đội ấy đã đi rồi.

Lời bình:
Cô bộ đội ấy đã đi rồi là bài thơ về tình cảm và sự hy sinh của các chiến sĩ, đặc biệt là những người phụ nữ trong cuộc chiến. Bài thơ thể hiện sự tiếc nuối và lòng kính trọng đối với những người đã ra đi vì lý tưởng cao cả.
Tác giả sử dụng ngôn từ cảm xúc để làm nổi bật sự hy sinh và lòng dũng cảm của các chiến sĩ, đồng thời tạo ra một bức tranh chân thực về cuộc sống trong thời kỳ chiến tranh.
Tiếng bom ở Siêng Phan
Tôi ở xa Siêng Phan Nghe bom dội đêm ngày Ầm ì tiếng tàu bay Vọng vào trong trí nhớ
Tôi đến gần Siêng Phan Nghe bom ầm ầm nổ Cỏ cây cũng chẳng yên Tiếng bom như tiếng thú
Tôi đứng giữa Siêng Phan Cao hơn tiếng bom là khe đá tiếng đàn Tiếng mìn công binh phá đá Tiếng điếu cày rít lên thong thả Tiếng oai nghiêm xe rú máy trên đường
Thế đấy giữa chiến trường Nghe tiếng bom rất nhỏ!
Lời bình:
Tiếng bom ở Siêng Phan phản ánh hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh qua hình ảnh tiếng bom. Bài thơ thể hiện sự ám ảnh và những hậu quả tàn khốc của chiến tranh đối với con người và môi trường.
Phạm Tiến Duật khéo léo sử dụng ngôn từ để truyền tải sự đau thương và những nỗi sợ hãi trong thời kỳ chiến tranh, đồng thời thể hiện sự phản ánh chân thực về cuộc sống trong những thời khắc khó khăn.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Lời bình:
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm nổi bật của Phạm Tiến Duật, miêu tả sự vất vả và kiên cường của một tiểu đội chiến sĩ trong hoàn cảnh chiến tranh. Bài thơ thể hiện sự bất chấp khó khăn và tinh thần lạc quan của các chiến sĩ dù trong tình cảnh khó khăn.
Hình ảnh chiếc xe không kính trở thành biểu tượng cho tinh thần chiến đấu và lòng kiên trì, đồng thời làm nổi bật sự bất khuất và sự hy sinh của những người lính.
Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.
Một dãy núi mà hai màu mây Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác Như anh với em, như Nam với Bắc Như Đông với Tây một dải rừng liền.
Trường Sơn Tây anh đi, thương em Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo Muỗi bay rừng già cho dài tay áo Rau hết rồi, em có lấy măng không?
Em thương anh bên tây mùa đông Nước khe cạn, bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ Chắc em lo đường chắn bom thù.
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ Em xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt mối riêng tư.
Đông sang tây không phải đường thư Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo Đông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo Tây Trường Sơn, bộ đội áo màu xanh.
Từ nơi em gửi đến nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Đông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn.
Lời bình:
Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là bài thơ nổi tiếng về cuộc sống và cuộc chiến tranh trên các tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ không chỉ mô tả hình ảnh của những con đường đầy thử thách mà còn thể hiện tinh thần đồng đội và lòng yêu nước của các chiến sĩ.
Tác giả sử dụng hình ảnh và mô tả chi tiết để tạo ra một bức tranh sống động về cuộc sống và những thử thách mà các chiến sĩ phải đối mặt.
Gửi em, cô thanh niên xung phong
Có lẽ nào anh lại mê em Một cô gái không nhìn rõ mặt Đại đội thanh niên đi lấp hố bom Áo em hình như trắng nhất.
Người tinh nghịch là anh dễ thân Bởi vì thế có em đứng gần Em ở Thạch Kim, sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn Đêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc dài quanh hố bom Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn: Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.
Tranh thủ có ánh sáng đèn dù Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt Mọi người cũng tò mò nhìn anh Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối. Em ơi em, hãy nghe anh hỏi Xong đoạn đường này các em làm đâu?
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu Cô gái ở Thạch Kim, Thạch Nhọn Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều Những con đường như tình yêu mới mẻ Đất rất hồng và người rất trẻ Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn, Thạch Kim
Những đội làm đường hành quân trong đêm Nào cuốc, nào choòng, xoong nồi xủng xoảng Rực rỡ mặt đất bình minh Hấp hối chân trời pháo sáng Đường trong tim anh in những dấu chân.
Chiếc võng bạt trên đường hành quân Anh đã buộc nhiều cây xoan, cây ổi Lại đường mới - và hàng nghìn cô gái Ở đâu em tinh nghịch của anh?
Bụi mù trời, mùa hanh Nước trắng khe, mùa lũ Đêm rộng đêm dài là đêm không ngủ Em vẫn đi, đường vẫn liền đường.
“Cạnh giếng nước có bom từ trường En không rửa, ngủ ngày chân lấm Ngày em phá nhiểu bom nổ chậm Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà…” Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa Thương em, thương em, thương e,m biết mấy!
Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại Sẽ giật mình: đường ta mới xây Đã có độ dài hơn cả độ dài Của đường sá đời xưa để lại!
Sẽ ra về bao nhiêu cô gái Một ngày mai, đường sẽ đứng trơ vơ Để cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Ơi em gái chưa một lần rõ mặt Có lẽ nào anh lại mê em Từ cái đêm Thạch Nhọn, Thạch Kim Tên em đã thành tên chung anh gọi: Em là cô thanh niên xung phong.
Lời bình:
Gửi em, cô thanh niên xung phong mang đậm tâm tư và tình cảm của Phạm Tiến Duật gửi đến những thanh niên xung phong. Bài thơ thể hiện sự tôn trọng và lòng ngưỡng mộ đối với những người trẻ tuổi, những người đã hy sinh và cống hiến cho sự nghiệp chung.
Ông khéo léo dùng ngôn từ để bày tỏ lòng kính trọng và sự trân trọng đối với tinh thần xung phong và sự hy sinh của các thanh niên.
Lời kết
Thơ Phạm Tiến Duật sử dụng ngôn ngữ gần gũi, toát lên sự lạc quan, yêu đời. Ông luôn thể hiện quyết tâm cùng ý chí chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trong từng vần thơ của mình. Bạn sẽ hiểu rõ hơn khi tìm hiểu phong cách sáng tác của Phạm Tiến Duật.